Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

Bảy Tỷ Câu Chuyện....



Chu Thập
1.11.11



Tuần qua, Quỹ Dân Số Thế Giới của Liên hiệp quốc đã cho công bố bản phúc trình về tình trạng Dân số thế giới trong năm 2011. Ở một nơi nào đó, có thể là Phi luật tân hay Ấn độ, vào lúc không giờ sáng thứ Hai 31 tháng 10 vừa qua, người thứ bảy tỷ trên thế giới đã chào đời. Trong năm nay, thế giới sẽ có thêm 135 triệu người xuất hiện trên trái đất và 57 triệu người trở về với cát bụi. Như vậy, lấy số sinh trừ cho số tử, dân số thế giới sẽ tăng thêm 78 triệu người.
Tôi vốn không thích những con số. Lúc còn học trung học, tuy không phải là một học sinh được xếp vào hạng dở toán, nhưng tôi lại thích “con chữ” hơn là “con số”. Học lịch sử, tôi thích những câu chuyện, nhưng lại ghét những niên biểu cần phải ghi nhớ. Học địa lý, tôi thích phong cảnh, văn hóa, con người hơn là những số liệu về dân số hay sản xuất kinh tế. Ngày nay, mỗi lần đi chợ, phải nhớ giá cả các mặt hàng ở các tiệm buôn hay trung tâm bán lẻ để so sánh và cân đo trước khi mua, tôi lại thấy nhức đầu. Nói gì đến những con số phải nhớ và viết xuống khi khai thuế. Còn với những con số như sổ ngân hàng, số điện thoại...bộ nhớ của tôi có cố gắng cách mấy cũng vô ích.
Với tôi, những con số thường vô cảm và không hồn. Nạn nhân của chiến tranh, của các chế độ độc tài, của thiên tai được tính bằng những con số. Những người đi tham dự một biến cố như biểu tình, biểu dương lực lượng, biểu dương tôn giáo cũng được đếm bằng con số; số người tham gia càng đông thì biến cố càng quan trọng, buổi lễ càng hoành tráng, lòng mộ mến đối với nhân vật được đón tiếp càng lớn, tổ chức càng có uy tín, tôn giáo càng mạnh...Chính vì vô cảm và không hồn mà con số cũng gia tăng sự tàn ác của con người: trong nhà tù hay trong trại tập tập trung chẳng hạn, tù nhân bị tước đoạt tên tuổi và phẩm giá để chỉ còn là một con số!
Dân số thế giới là một con số để các chuyên gia làm các phép tính cộng trừ nhân chia. Nhìn theo kinh tế thị trường, dân số chỉ còn là một thị trường để phân tách lợi hại. Thế giới Tây phương đã chẳng từng nhìn vào Trung quốc như một thị trường béo bở đó sao? Một tỷ người, mỗi người chỉ cần một viên Aspirin thì đủ thấy cái mối lợi to lớn biết chừng nào! Nhìn về điều được gọi là “Thế kỷ Á châu”, Úc đại lợi cũng chỉ xem các nước đang có triển vọng phát triển kinh tế nhanh chóng tại Á châu như một thị trường mà thôi. Mà đã là thị trường thì dĩ nhiên, càng nhiều người tiêu thụ thì càng bán được nhiều hàng hóa. Dân số như vậy thiết yếu cũng là một thị trường.
Nhưng cái nhìn thị trường đầy lạc quan đó cũng không đánh đổ được mối lo ngại của nhiều nhà dân số học về nạn nhân mãn. Người ta lại nại đến chủ thuyết của ông thày dòng Malthus bên Anh vào thế kỷ 16 để kêu gọi hạn chế sinh sản, bởi vì dân số gia tăng theo cấp số nhân trong khi thực phẩm lại gia tăng theo cấp số cộng. Nhiều người đã ca ngợi Trung quốc, quốc gia đầu tiên trên thế giới đã có dân số lên đến một tỷ người vào năm 1980, vì đã thành công trong việc hạn chế dân số bằng chính sách mỗi gia đình chỉ được phép có một đứa con. Ngày nay, có lẽ dân số trên một tỷ người của quốc gia cộng sản này đã có đủ ăn, đủ mặc và ngay cả giàu có hơn nhiều nước khác,  nhưng vì chính sách mỗi gia đình một đứa con ấy, trên 30 triệu thanh niên  đành phải lâm vào tình trạng “ế vợ” cho nên phải vượt  biên giới qua Việt nam hay đi mãi sang tận các nước Phi châu nghèo để “mua vợ”.Thời buổi này, không có cái cảnh “Vợ nhặt” như nhà văn Kim Lân đã mô tả về cơn đói năm Ất dậu 1945 ở Miền Bắc Việt nam, nhưng việc người Tàu, người Đài Loan, người Đại hàn...bỏ tiền ra đi mua vợ Việt nam là chuyện đang xảy ra như cơm bữa ở cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Trong chuyến về thăm quê hương vừa qua, đi đâu tôi cũng thấy có khẩu hiệu với nội dung “dù gái hay trai, chỉ hai là đủ” mà thôi. Rồi đây, với chính sách này và với tình trạng trọng nam khinh nữ, không biết con trai Việt nam sẽ đi nước nào để tìm vợ hay mua vợ.
Trong khi ở những nước đông dân, mỗi người dân là một gánh nặng cho guồng máy kinh tế và xã hội nên các chính phủ tìm cách hạn chế và kiểm soát sinh sản, thì tại những nước ít dân hay dân số già nua, người ta lại khuyến khích sinh sản, bởi vì người dân được xem như một thứ “vốn quý” cần thiết cho phát triển kinh tế và xã hội.
Nhưng dù có được xem là vốn quý cần gia tăng hay như một gánh nặng cần hạn chế, thì dân số hay đúng hơn mỗi một người trong xã hội vẫn là một con số, một thứ “vật chất” (vốn/gánh nặng) để tính toán trong bài toán kinh tế và xã hội. Trong cái nhìn nào thì con người dường như cũng chỉ là một con ốc trong một guồng máy. Guồng máy chạy đều thì con ốc còn lành lặn, guồng máy gặp trục trặc thì con ốc có thể bị nghiền nát. Người ta thường so sánh chế độ cộng sản với một “cỗ máy nghiền” là thế.
Dân số thế giới đã được bảy tỷ người. Tôi là một trong số bảy tỷ người này. Là một hữu thể có nhân vị và một phẩm giá độc nhứt vô nhị, chẳng giống bất cứ một người nào trong số bảy tỷ người này, tôi cương quyết không chấp nhận chỉ là một con số.
Tôi là con thứ 10 trong một gia đình 12 người con. Thế hệ “babyboomer” của tôi thường thuộc những gia đình đông con. Tôi vẫn không ngừng cám ơn cha mẹ vì đã không biết đến nạn nhân mãn, kế hoạch hóa gia đình, các phương tiện ngừa thai hay phá thai mà tôi mới có thể góp mặt với đời. Tôi cũng cám ơn anh chị em trong nhà mỗi người đã phải ăn bớt một chút để tôi cũng có phần. Cha mẹ tôi là những người thất học và chất phác. Nhưng tôi tin rằng cũng như mọi đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ, tôi đã mang lại tiếng cười, niềm vui và hy vọng cho cha mẹ tôi và người xung quanh. Có lẽ tôi chưa làm được “trò trống” gì trên thế giới này. Nhưng sự xuất hiện của tôi trên cõi đời này đã mang lại thêm một lý do để hy vọng ít nhứt là cho cha mẹ, gia đình và người thân của tôi.
Tôi thích cái tựa đề của bài báo có đính kèm hình của một thơ nhi mới chào đời “Lại có thêm một trong 7 tỷ lý do để lạc quan”, trên báo The Sydney Morning Herald số ra cuối tuần qua. Đọc tựa đề bài báo, tôi thấy phấn khởi vì sự có mặt của tôi cũng như của bất cứ đứa trẻ nào trên trái đất này. Tôi không phải là một con số, nhứt là một số không. Tôi là một con người có thể mang lại niềm hy vọng cho người khác! Nghĩ như thế mà thấy vui và hãnh diện trong ngày dân số trái đất đã vượt qua ngưỡng cửa 7 tỷ người.
Năm 1995, danh ca Michael Jackson đã cho trình làng Album có tựa đề “HIStory”. Album này đã được đề cử là “Album của năm” cho giải Grammy. Tôi không phải là một “fan” của danh ca kích động nhạc này. Nhưng tựa đề của Album không thể không khiến tôi suy nghĩ. Đây chỉ là câu chuyện đời tư (his story) của một nghệ sĩ tài ba, nhưng lại có tham vọng trở thành “lịch sử” (History). Thực tế những sáng tác và tài nghệ của Michael Jackson đã không chỉ đi vào lịch sử thế giới, mà còn làm nên lịch sử thế giới. Tôi nghĩ một cách tự hào rằng không riêng những nhân vật lịch sử, mà cuộc đời của mỗi người có mặt trên thế giới này cũng đều là một phần của lịch sử thế giới.
Về điểm này, tôi thích cách quảng cáo của Đài SBS. Thỉnh thoảng, đài này cho chiếu lên câu “Six billions stories and counting...” (6 tỷ câu chuyện và còn đang tính thêm...) và kèm theo một chú thích bằng nhiều thứ tiếng, có khi bằng tiếng Việt nam như “đây là câu chuyện về gia đình tôi...” Con số của những câu chuyện nay hẳn đã vượt qua con số bảy tỷ.
Lịch sử của thế giới chúng ta được viết lên không chỉ bằng những biến cố lớn, những nhân vật danh tiếng hay những tin tức giựt gân được truyền đi trên các phương tiện truyền thông mỗi ngày, mà được cấu thành bởi 7 tỷ câu chuyện khác nhau. Mỗi người có mặt trên trái đất này đều có một lịch sử riêng và một câu chuyện riêng để kể. Có những câu chuyện được tự kể. Có những câu chuyện được người khác kể lại. Nhưng dù được kể lại hay âm thầm chôn chặt trong nội tâm sâu kín của cõi lòng, mỗi câu chuyện đều là một lịch sử độc nhứt vô nhị không bao giờ lập lại.
Bảy tỷ người có mặt trên trái đất là 7 tỷ câu chuyện khác nhau, bởi vì mỗi người là một thế giới riêng tư cần được tôn trọng, chiêm ngưỡng và nhứt là cảm thông. Thế giới có chiến tranh một phần có lẽ vì thiếu sự tôn trọng đối với cái thế giới huyền nhiệm riêng tư ấy.
Ngày dân số thế giới được bảy tỷ người, trong nhiều ý nghĩ vụn vặt, tôi thấy rằng khoan nhượng và cảm thông là thái độ quan trọng nhứt trong cuộc sống. Tôi cứ suy nghĩ về câu chuyện được ai đó sưu tầm và gởi đăng trên Việt luận số ra ngày thứ ba 25 tháng 10 vừa qua: một người đàn bà sống trong một chung cư hay bị quấy rầy vì tiếng đóng cửa mạnh của một cậu bé ở lầu trên. Nhưng cứ mỗi lần gặp người đàn bà, cậu bé đều xuýt xoa xin lỗi. Ngày nọ, tiếng dập cửa không còn nữa. Gặp lại người đàn bà, cậu bé mới giải thích rằng cậu không còn đóng sầm cánh cửa để tạo ra âm thanh nữa, vì mẹ cậu đã qua đời. Cậu nói rằng trong suốt thời gian nằm liệt giường, mẹ cậu cần nghe có tiếng đóng cửa mạnh để được an tâm là có người đang ở bên cạnh mình. Lời giải thích của cậu bé đã xóa tan mọi nghi ngờ và thành kiến nơi người đàn bà.
Kinh nghiệm bản thân thường cho tôi thấy rằng thành kiến và thái độ thiếu cảm thông dễ làm cho tôi bị co cụm và đóng kín trong bản thân để khước từ mọi giao cảm với người khác.
Trong đoản văn có tựa đề “Sư tử không ăn cỏ” được đăng trong tuyển tập “Yêu người ngóng núi” mà tôi đã mua trong chuyến đi Việt nam vừa qua, tác giả Nguyễn ngọc Tư đã kể lại một kinh nghiệm tương tự: “Đôi khi vô tình, người ta đòi hỏi ai đó (hay con gì đó) không được sống như chính họ (hay chính nó). Hồi nhỏ, mỗi lần thấy thầy giáo dắt con heo nọc đi bỏ giống là tôi thấy phiền lắm, tôi nghĩ thầy chỉ nên đọc sách, tỉa cây kiểng, nuôi chim sáo hoặc rung đùi ngồi đánh cờ chơi. Dù thầy nghèo xơ xác, dù vợ con thầy cực ăn ôm nhách, nhưng nếu cực chẳng đã phải kiếm tiền, thì thầy nên mở tiệm kẹo, xi rô đá bào hay bán sách báo...không lý nào xắn quần áo xắt chuối nấu cho heo, còn dắt nó đi lang lang khắp xóm những khi tan buổi dạy. Tôi nghĩ vậy.
Hồi đó, thầy sống như thầy có, lương thiện mưu sinh cho qua hồi cơ cực, nhưng lòng kính trọng thầy của tôi bị sứt mẻ lảng òm. Như người ta không chịu anh bác sĩ ăn mặc cù lần, xét nét ông kia tướng tá nông dân mà làm lãnh đạo, thất vọng khi trên mắt nhà thơ tình nổi tiếng lại dính...ghèn...
Nói về thành kiến thì ai cũng có một kho. Xưa tôi ghét mấy người mua bán ve chai, do đã gặp vài người tiện tay ăn cắp vặt...Những buổi trưa thấy mấy chị ve chai lầm lũi ngang qua, nắng mưa oằn cả hai cần xé, tôi bỗng nghĩ chẳng may tôi phải ra đường mưu sinh bằng cách đó, tôi cũng sẽ phạm lỗi, biết đâu chừng...Cực khổ cỡ nào tôi cũng chịu được, kể cả đói lạnh, nhưng con tôi thèm thịt đến nỗi đang sốt dầm dề mà được ăn cháo trắng với thịt nướng là tỉnh trân, thì tôi cũng sẵn sàng đánh cắp cái chảo, hay mớ sắt vụn, đoạn ống nước cũ...để đem về cho con một bữa ngon.” (Nguyễn ngọc Tư, Yêu người ngóng núi, nhà xuất bản Trẻ, tản văn tái bản lần thứ năm, 2011 trg 127-128)
Đọc tản văn trên đây của tác giả Nguyễn ngọc Tư, tôi cũng làm một cuộc “xét mình” như Đạo công giáo của tôi thường dạy làm. Tôi thấy mình rất nhiều lần muốn làm quan tòa để xét xử những người mà tôi cho là có lối sống hay hành xử không giống tôi và cũng chẳng giống ai. Tôi thấy mình muốn làm Đức Chúa Trời để đi sâu vào nội tâm sâu kín của người khác mà xét xử. Tôi quên mất rằng mỗi một con người trong số bảy tỷ người đang có mặt trên thế giới này là một “thế giới” đầy huyền nhiệm, cần được tôn trọng, chiêm ngưỡng và cảm thông hơn là “xếp loại”, tổng quát hóa và nhứt là kết án.










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét