Edward Castleton
Chu Văn chuyển ngữ
Trong cuộc tranh luận giữa các ứng cử viên thuộc Đảng Dân
Chủ tối Thứ Tư (19/2/2020) vừa qua tại
Las Vegas, Bernie Sanders đã được
hỏi về một cuộc thăm dò dư luận theo đó hai phần ba cử tri “sẽ không cảm thấy
thoải mái với một ứng cử viên tổng thống theo xã hội chủ nghĩa”. Thượng nghị sĩ
này đã trả lời: “Trong nhiều phương diện, ngày nay chúng ta đang là một xã hội
xã hội chủ nghĩa. Khi Donald Trump kiếm được 800 triệu Mỹ kim từ việc trốn thuế
và phụ cấp để xây những chung cư sang trọng, đó là xã hội chủ nghĩa cho người
giàu. Chúng ta cần phải phụ cấp cho các công nhân của Walmart hiện đang sống nhờ
Trợ cấp Y tế (Medicaid) và tem phiếu thực phẩm (food stamps), bởi vì những gia
đình giàu có nhất tại Mỹ đang trả cho công nhân của họ đồng lương chết đói. Đó
là xã hội chủ nghĩa cho người giàu. Tôi tin ở xã hội chủ nghĩa Dân Chủ cho công
nhân”.
Sự say mê đối với xã hội chủ nghĩa trong Đảng Dân Chủ Mỹ
bắt nguồn từ đâu? Điều gì đã thay đổi và liệu các cử tri khác có thể được thuyết
phục rằng họ cũng sẽ được hưởng lợi không?
Bill Gates nghĩ rằng sự say mê đối với Thượng nghị sĩ
Bernie Sanders thuộc Đảng Dân Chủ hay dân biểu Alexandria Ocasio-Cortez không
nên làm cho giới doanh nghiệp giàu có phải lo lắng, bởi vì “xã hội chủ nghĩa” của
họ chỉ cho thấy rằng một số người Mỹ muốn tăng thuế nhưng không hề muốn hủy bỏ
chủ nghĩa tư bản. Trong một cuộc phỏng vấn trên Đài CNBC hôm mùng Sáu tháng Năm 2019 vừa qua, ông Gates nói rằng
ngay cả ông, dù là người giàu thứ nhì tại Hoa Kỳ, cũng ủng hộ một chính sách
thuế thu nhập cấp tiến hơn cũng như gia tăng thuế đánh trên tài sản được thừa
hưởng (Đây là loại thuế đã được tổng thống Trump giảm xuống gần như số không).
Warren Buffett, người giàu thứ ba tại Mỹ, đã không ngừng
chỉ trích sự bất công trong hệ thống thuế khóa của Mỹ. Theo hệ thống này, ông tương
đối đóng thuế ít hơn người giúp việc nhà hay người trực điện thoại cho ông.
Chuyện người giàu bị lương tâm cắn rứt có thể không phải là điều mới mẻ. Nhưng tâm
trạng vừa lo âu vừa muốn làm từ thiện của những người “siêu” giàu tại Mỹ khác với
mối quan tâm về thần học của những người La Mã giàu có vào thời thánh Augustinô
(354-430). Những người này được thu hút bởi cuộc sống mai hậu do Kitô Giáo hứa hẹn và hy vọng nhờ sự hoán cải
có thể bảo vệ được linh hồn của mình trong một tương lai bên kia thế giới này.
Tuy nhiên những lời tuyên bố mới đây của ông Gates và những
người khác không những bộc bạch thiện chí của họ mà còn cho thấy một bối cảnh
chính trị cấp tiến hơn. Sanders, Ocasio-Cortez và các đồng minh của họ, những
người tự xưng là “xã hội chủ nghĩa dân chủ”, không hề đòi hỏi phải quốc hữu hóa
những lãnh vực chính của nền kinh tế Mỹ. Sở dĩ chiến dịch của ông Sanders trong
các cuộc bầu cử sơ bộ hồi năm 2016 được nhiều người ủng hộ là bởi vì ông đã chỉ
trích tiền học phí quá cao trong các đại học Mỹ cũng như những tốn phí ngút
ngàn của việc chăm sóc y tế. Nếu học phí là nguyên nhân tạo ra nỗi lo lắng cho
giới trung lưu thì phí tổn y tế ảnh hưởng đến mọi người trừ người giàu có.
Những vấn đề trên đây không hề bắt nguồn từ xã hội chủ
nghĩa của thời xa xưa, vốn gắn liền với giới công nhân lắp ráp trong các kỹ nghệ
giây chuyền. Một cách nào đó, xã hội chủ nghĩa đã thay đổi trong kỷ nguyên được
đánh dấu bằng cuộc khủng hoảng môi sinh do con người tạo ra. Những người tranh
đấu đang tập họp xung quanh ông Sanders không hề say mê hình ảnh của ống khói của
các nhà máy. Họ cũng chẳng giới hạn những nguyện vọng của họ vào việc làm toàn
phần hay sự độc lập về năng lượng mà việc xẻ đá lấy dầu (fracking) hay mở lại
các mỏ than có thể mang lại. Đây là điều mà ông Trump và những đồng minh bảo hộ
mậu dịch của ông, những người rất muốn mang về Mỹ mọi hệ thống sản xuất giây
chuyền, hứa hẹn.
Đó đây bên trong Đảng Dân Chủ, người ta có thể nghe vọng
lại những đòi hỏi của xã hội chủ nghĩa trước kia. Chẳng hạn những lời tuyên bố
của Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren. Bà này đề nghị nên cho công nhân được đại
diện trong ban lãnh đạo của các công ty lớn. Ngay cả những ứng cử viên ôn hòa
hơn trong các cuộc bầu cử sơ bộ năm 2020 như ông Pete Buttigieg, cũng đã nhìn
nhận rằng sự say mê hiện nay của nhiều người đối với “xã hội chủ nghĩa” bắt nguồn
từ sự kiện “chủ nghĩa tư bản đã làm cho nhiều người thất vọng”. Đây là lý do giải
thích tại sao các cử tri Dân Chủ có một cái nhìn tích cực về xã hội chủ nghĩa
hơn là tư bản chủ nghĩa (có tới 57 phần trăm cử tri dân chủ ủng hộ xã hội chủ
nghĩa). Mặc dù đa số cử tri Mỹ (57 phần trăm) chọn tư bản chủ nghĩa, nhưng sự hấp
dẫn của chủ nghĩa này hiện đang suy giảm. Lâu nay các nhà khoa học xã hội và
các sử gia vẫn cho rằng sở dĩ chính trường Mỹ có một sắc thái đặc biệt là bởi
vì vắng bóng xã hội chủ nghĩa.
Qua các tác phẩm vốn đã từng được đưa vào chương trình học
của môn chính trị học ở cấp đại học, Seymour Martin Lipset (1922-2006) đã tìm
cách giải thích tại sao những ý tưởng xã hội chủ nghĩa đã đi vào chính trị trên
khắp Âu Châu mà không hề có tại Hoa Kỳ. Theo ông, sở dĩ như thế là do bản chất
của hệ thống chính trị Mỹ (sự thống trị của 2 Đảng chính, những cuộc bầu cử chỉ
có một vòng (first past the post), cử tri đoàn có giá trị hơn lá phiếu phổ
thông). Cũng theo tác giả Lipset, sở dĩ ở Mỹ không có xã hội chủ nghĩa là vì
tính không đồng chủng của giai cấp công nhân, vốn không ngừng đổi mới theo từng
đợt di dân. Tác giả cũng cho rằng sở dĩ xã hội chủ nghĩa không có mặt tại Hoa Kỳ
là vì sự vắng bóng của một liên minh bền vững giữa các đảng chính trị và các
nghiệp đoàn. Cuối cùng, theo tác giả, về mặt văn hóa, người Mỹ gắn bó với những giá trị cá nhân, tức những
giá trị không hợp với những ý tưởng và cương lĩnh xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Lipset đã chịu ảnh hưởng của một cuộc nghiên cứu
của triết gia Max Weber và một nhà xã hội học đương thời của ông là ông Werner
Sombart. Tác phẩm có tựa đề “Tại sao không có xã hội chủ nghĩa tại Hoa Kỳ?” (Why
is there no socialism in the United States) đã được xuất bản năm 1906. Sombart
là người rất tinh thông về các tác phẩm viết về kinh tế của Karl Marx và đồng
thời rất có thiện cảm với Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức. Ông nghiên cứu về những hình
thức khác nhau của tính hiện đại trong các xã hội tư bản. Sombart kết luận rằng
ngay cả khi tư bản chủ nghĩa đạt đến cao trào trong xã hội Mỹ đi nữa, xã hội
này cũng khác biệt với những xã hội Âu Châu cùng thời kỳ, bởi vì nó thù nghịch
với xã hội chủ nghĩa. Và sở dĩ xã hội Mỹ thù nghịch xã hội chủ nghĩa là vì giai
cấp công nhân của nó thích được “trưởng giả hóa”. Theo tác giả Sombart, giới công nhân Mỹ không
chống lại tư bản chủ nghĩa hay chính phủ của họ và sẵn sàng thích nghi với một
hệ thống chính trị vốn ưu đãi sự thống trị của lưỡng đảng, mặc dù rõ ràng hệ thống
này đã không thể hiện quyền lợi của giai cấp họ. Công nhân Mỹ giàu có hơn công
nhân Âu Châu và có thể thăng tiến hơn nhờ cật lực làm việc.
Trong đoạn nổi tiếng nhất của ông, tác giả Sombart viết:
“Nhờ tình trạng kinh tế được cải thiện và mức sống gia tăng, người lao động
trung bình có cơ hội trải qua những cơn cám dỗ của sự đồi bại từ chủ nghĩa duy
vật. Chính vì vậy mà họ thấy cần phải học để yêu thích hệ thống kinh tế vốn đã
nhào nặn nên số phận của họ. Họ phải học cách dần dần thích nghi não trạng của
mình với cơ chế đặc thù của một nền kinh tế tư bản và cuối cùng cũng đành phải
đầu hàng trước tác động không thể cưỡng chế được do sự thay đổi nhanh chóng và sức mạnh ngày càng
gia tăng của thời kỳ lạ lùng này. Được luồng khí ái quốc tác động, người lao động
cảm thấy hãnh diện vì Hoa Kỳ đã lãnh đạo tất cả mọi quốc gia khác trên con đường
tiến bộ; não trạng duy doanh nghiệp được hình thành và biến họ thành một doanh
gia cần kiệm, biết tính toán và chẳng màng đến những lý tưởng như ta đang thấy
hiện nay. Tất cả những ảo tưởng của Xã hội Chủ nghĩa chỉ là con số không so với
thịt bò bít tếch và chiếc bánh táo”.
Tác giả Sombart cũng chỉ ra khả năng di động về mặt địa
lý tại Hoa Kỳ vốn không hề có tại Âu Châu. Một biên giới mở cửa hứa hẹn đất đai
trù phú và rẻ mạt, đã mang lại cho những ai bất mãn vì cuộc sống khó khăn trong
các thành phố kỹ nghệ niềm hy vọng có thể đạt được “Giấc Mơ Mỹ” là có cuộc sống
tự trị nhờ sở hữu được đất đai ở thôn quê.
Theo Sombart, người công nhân Mỹ, chính vì khao khát rời
bỏ giai cấp của họ cho nên không thể hiểu rằng phúc lợi cá nhân được cải thiện
và hành động tập thể là hai điều có thể hòa hợp với nhau. Những người kế vị tác
giả Sombart như Lipset chẳng hạn, đã nhấn mạnh đến vai trò của di dân khiến cho
việc thành lập một giai cấp công nhân trở thành khó khăn. Các công nhân đến Mỹ
từ nước ngoài vào đầu Thế kỷ 20 vẫn xem tình trạng của họ như tạm bợ. Mục tiêu
của họ là kiếm được thật nhiều tiền để có thể trở về quê quán của mình. Cũng
trong thời kỳ đó, di dân cũng khiến cho bất cứ một liên minh nào giữa các công
nhân có tay nghề (thường là những người sinh trưởng tại Mỹ) và những công nhân
không có tay nghề (thường là những người đến từ nước ngoài) trở nên khó khăn.
Các công nhân đến từ nước ngoài là những người có óc thực tiễn hơn đối với thị
trường lao động và cũng ít đòi hỏi hơn về những điều kiện làm việc. Các công
nhân đến từ nước ngoài có khuynh hướng muốn hòa nhập vào các cộng đồng sắc tộc
của họ tại các thành phố hơn là quan tâm đến quy chế lao động của họ. Thành ra
rất khó thuyết phục họ về vấn đề giai cấp.
Tác giả Sombart cũng ghi nhận sự hội nhập dân sự tương đối
cao tại Mỹ. Có thể đây là lý do giải thích tại sao ở Mỹ không hề có ý thức về
giai cấp công nhân, bởi vì không như ở Âu Châu, kể từ năm 1792, tại Mỹ nam cử
tri da trắng đã dần dần hội nhập vào đời sống chính trị trước khi điều đó được
ghi khắc trong hiến pháp năm 1856. Tác giả Louis Hartz, một chuyên gia về chính
trị hậu chiến, cho rằng sở dĩ người Mỹ ít có ý thức về giai cấp công nhân là bởi
vì tại Mỹ không hề có chế độ phong kiến, không có giới tiểu thương và tiểu công nghệ cũng như
không có bất kỳ một cuộc cách mạng nào do giới trưởng giả lãnh đạo để lật đổ cấp
lãnh đạo bảo thủ của một xã hội truyền thống. Một người đương thời của tác giả
Hartz là ông Richard Hofstadter, khẳng định rằng thay vì chạy theo các ý thức hệ,
Hoa Kỳ đã có một ý thức hệ riêng cho mình.
Tuy nhiên, giữa thời kỳ tác giả Sombart cho xuất bản cuộc
nghiên cứu của ông và năm Đệ nhất Thế chiến kết thúc, Hoa Kỳ đã từng có một đảng xã hội vững mạnh dưới sự lãnh đạo của
ông Eugene Victor Debs. Năm 1910, Hoa Kỳ đã có nhiều viên chức theo xã hội chủ
nghĩa không kém gì việc Vương quốc Anh thống nhất đã bầu chọn các đảng viên của
Đảng Lao Động. Năm 1912, các đảng viên xã hội đã nắm giữ quyền hành tại nhiều
thị trấn, nhất là tại một số tiểu bang như Wisconsin, Michigan, New York và
California. Ông Debs đã chiếm được 6 phần trăm phiếu phổ thông trong cuộc bầu cử
tổng thống và Đảng của ông đã đạt được nhiều kết quả ngoạn mục không những tại
các tiểu bang như Wisconsin và New York, mà còn cả tại những tiểu bang thôn quê
ở miền Nam như Oklahoma, Arkansas, Texas và Louisiana.
Tuy nhiên những chiến thắng trên đây đã không kéo dài.
Sau khi Hoa Kỳ tham chiến, ông Debs và nhiều lãnh tụ xã hội khác là những người
đã chống lại sự can thiệp của Mỹ, đã bị giam tù. Cuộc Cách Mạng Nga đã tạo ra
nhiều căng thẳng về ý thức hệ trong nội bộ của một Đảng vốn đã yếu kém vì sự
đàn áp của chính phủ, bởi vì thứ xã hội chủ nghĩa của phần lớn đảng viên xã hội Mỹ được cảm ứng từ
Tin Mừng của Kitô Giáo và Phong trào Bình dân chống lại độc quyền hơn là từ các
tác phẩm của Marx và Lenin.
Nhiều quan sát viên tin rằng ông Bernie Sanders đã thành công trong các cuộc
bầu cử sơ bộ hồi năm 2016 và hiện đang tiếp tục thu hút nhiều người là bởi chiến
dịch của ông đã được khuấy động từ bên
trong một đảng đã vững mạnh, với hy vọng có thể thay đổi định hướng chính trị của
đảng. Ứng cử viên độc lập Ralph Nader và ứng cử viên xã hội Debs đã không thành công trong việc xâm nhập vào cơ
chế chính trị. Nhưng sở dĩ ông Sanders thành công là bởi vì thời kỳ thăng tiến
xã hội kéo dài trong 40 năm qua đã chấm dứt. Đây là thời kỳ mà tác giả Sombart
tin rằng đã khiến cho người Mỹ thù ghét xã hội chủ nghĩa. Thuốc chủng chống xã
hội chủ nghĩa của việc “trưởng giả hóa” không còn tác động như cách đây một thế hệ.
Tác giả Lipset tưởng tượng rằng tính “dị thường” của Hoa
Kỳ sẽ biến mất với việc các đảng tả phái của Âu Châu chuyển sang hữu phái.
Xuyên qua việc tư hữu hóa và các cuộc cải cách để tự do hóa thị trường, các đảng
tả phái của Âu Châu cũng sẽ giống như Đảng Dân Chủ của cựu tổng thống Bill
Clinton. Ông Lipset đã không bao giờ tưởng tượng được rằng một ngày nào đó các
thế hệ trẻ hơn sẽ tự xem mình như những người theo xã hội chủ nghĩa hoặc những
người tranh đấu cho Đảng Dân Chủ chạy theo ông Sanders bởi vì họ cảm thấy bị bỏ
rơi bởi một Đảng dưới thời ông Barack Obama sau cuộc khủng hoảng tài chính hồi
năm 2008, đã thực hiện một cuộc chuyển giao tài sản cho người giàu chưa từng có
trong lịch sử Mỹ.
Những người theo xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Mỹ thường
tìm cách xác định lại giai cấp công nhân không dựa trên mối tương quan với kỹ
nghệ và sản xuất cho bằng với kỹ thuật và lãnh vực dịch vụ, bất kể màu da của
người lãnh lương. Họ tự cho là đại diện cho các giáo viên, y tá, người quét dọn
hay nhân viên trong các tiệm ăn: tất cả đều (là giai cấp công nhân) có cùng một
quy chế riêng biệt như những người theo xã hội chủ nghĩa trước kia đã dành cho
các nam công nhân da trắng trong các hầm mỏ, xưởng thợ và nhà máy sắt.
Hiện tại, hầu hết những người tranh đấu thuộc cánh tả
trong Đảng Dân Chủ đều là giới trẻ thuộc giai cấp trung lưu. Họ đang lo lắng
cho sự xuống cấp xã hội của họ. Liệu khuynh hướng chính trị cực đoan của họ có
thu hút được những nhóm kinh tế-xã hội khác không? Đây là những nhóm đã từng chạy
theo các chính trị gia như ông Debs, nhưng nay lại bị lung lay bởi chính sách mỵ
dân của ông Trump. Liệu những người theo xã hội chủ nghĩa hiện nay có thể thu
hút được những người Mỹ không sống trong cùng một khu phố, thị trấn, liên bang
hay vùng miền như họ không?
(Theo Edward Castleton, “Socialism no longer a dirty word
in America”, Le Monder Diplomatique
21/02/2020.
Edward Castleton là một sử gia và đồng tác giả của cuốn
sách “Quand les socialistes inventaint l’ avenir 1825-1860” (khi những người
theo xã hội chủ nghĩa phát minh ra tương lai)