Chu Thập
26.6.15
Trong bài nhận định có tựa đề “Khi các lãnh đạo tôn giáo tôn thờ tội ác” được phổ biến trên các cơ quan truyền
thông của người Việt hải ngoại cũng như một số báo mạng “lề trái” trong nước, Tác
giả Trần Trung Đạo đã ghi lại một số hình ảnh về các sinh hoạt của Giáo hội Phật
giáo “quốc doanh” trong nước như: các lãnh đạo Phật giáo “đọc những lời nịnh bợ
đảng Cộng Sản một cách trơ trẽn”, các tăng sĩ xếp hàng dài trước lăng Ba Đình để
vào “kính viếng” cái xác ướp của ông Hồ Chính Minh và nhứt là tượng của ông Hồ
Chí Minh “ngồi chễm chệ giữa chánh điện” trong một số chùa chiền.
Nếu một số lãnh đạo Phật giáo ở Việt Nam rước ông Hồ Chí Minh vào ngự trị ở
chánh điện, thì tại Hoa Kỳ, hồi năm trước, Tổng thống Barack Obama lại kính cẩn
cung nghinh một bức tượng của Đức Thích Ca vào trong Tòa Bạch Ốc để, những lúc
căng thẳng hoặc khi cần làm những quyết định quan trọng liên quan đến tình hình
thế giới, ông thường đến chiêm ngắm Đức Phật và tìm nguồn cảm hứng.
Tôi là một tín hữu Kitô. Tôi thường hãnh diện tuyên xưng điều đó. Nhưng tôi
cũng không ngần ngại để xác nhận rằng mình là một Phật tử. Thuần thành để xuống
tóc quy y, tụng kinh gõ mõ, đi chùa, cúng dường, ăn chay...thì không. Tôi cũng
chẳng thỉnh bất cứ một tượng Phật nào vào nhà. Tôi cũng chẳng rành rẽ về “giáo
lý” Phật Giáo. Phật Giáo lại có quá nhiều hệ phái. Có Đại Thừa, Tiểu Thừa. Có
Phật Giáo Thiền. Có Phật Giáo Tây Tạng. Rồi ngay cả trong Phật Giáo Tây Tạng lại
cũng có năm bảy tiểu phái. Tôi là Phật tử nhưng chẳng thuộc hệ phái nào cả. Xét
cho cùng, tôi chẳng là “tín đồ” của Phật Giáo xét như là một tôn giáo có tổ chức,
có chức
sắc, có phẩm trật, có giáo lý. Tôi tự nhận là Phật tử bởi vì lúc nào tôi
cũng ngưỡng mộ Đức Phật và cố gắng sống theo lời dạy của Ngài. Tôi biết rằng nếu
chỉ cần bỏ gươm xuống là đã có thể thành Phật thì tôi thấy đâu cần phải có một
pháp danh hoặc trải qua một nghi thức nào đó, như phép rửa tội trong Kitô Giáo
chẳng hạn, để trở thành Phật tử. Tôi công khai nói lên điều đó mà chẳng sợ bất
cứ Giáo hội Phật giáo nào xếp tôi vào hạng “lạc giáo” hoặc “ra vạ tuyệt thông”
cho tôi cả.
Tôi không nhớ mình đã trở thành đệ tử của Đấng đã dùng ngón tay để chỉ cho
tôi thấy vầng trăng từ lúc nào. Chỉ biết rằng kể từ lúc tôi có được “hạnh ngộ”
với Đức Đạt Lai Lạt Ma thông qua một số tài liệu ghi lại các bài nói chuyện và
nhứt là hình ảnh của nụ cười nhân ái, an hòa của Ngài, thì lòng ngưỡng mộ và
say mê của tôi đối với Đức Thích Ca lại càng gia tăng. Tôi lại càng xác tín về
tư cách Phật tử của mình hơn nữa khi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố: “Tôn giáo của tôi thật đơn giản. Chẳng cần có
chùa chiền. Chẳng cần có một triết lý phức tạp. Tâm trí của chúng ta, trái tim
của chúng ta chính là đền thờ của chúng ta. Triết lý (của tôn giáo) chính là
lòng tử tế”. Tôi cảm thấy được “giác ngộ” bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài đã
đưa tôi vào cái lõi của bất cứ một tôn giáo nào. Thực vậy, bất cứ con đường “đạo
hạnh”, tôn giáo hay nhân bản nào cũng đều dẫn về sự tử tế. Sống tử tế, nghĩa là
biết nghĩ đến người khác với sự cảm thông và thái độ sẵn sàng tha thứ, là “có đạo”, “đi đạo” và “sống đạo”.
Chúa Giêsu của tôi cũng chỉ dạy có thế. Ngài dạy các môn đệ hay bất cứ ai
muốn làm môn đệ Ngài hãy “kính mến Chúa và yêu người như mình ta vậy”. Chúa thì
tôi cũng chẳng thấy và dĩ nhiên cũng chẳng cảm nhận được. Nhưng tôi tin lời của
một vị môn đệ thân tín của Chúa Giêsu là thánh Gioan khi vị này viết trong một
lá thư: “Bất cứ ai yêu thương thì người đó được sinh ra bởi Thiên Chúa và biết
Thiên Chúa” (I Ga 3,12). Thật vậy, mỗi lần tôi cố gắng sống tử tế, nghĩa là yêu
thương tha nhân, thì tôi “cảm nhận” được thực tại mầu nhiệm là Thiên Chúa.
Nhưng tha nhân là ai để tôi yêu thương như yêu thương chính mình? Trong một
bài thơ có tựa đề “Peter: on the Neighbour” (Thánh Phêrô nói về tha nhân), thi
sĩ Mỹ gốc Liban Kahlil Gibran (1883-1931) đã đặt vào miệng Thánh Phêrô những lời
như sau: “Một hôm, tại thành Capernaum, Chúa và Thày tôi đã dạy như sau: “Người
lân cận (tha nhân) của ngươi chính là người đang ẩn nấp sau một bức tường. Với
sự cảm thông thì mọi bức tường đều đổ xuống. Nhưng làm sao biết được tha nhân
là con người tốt nhứt của ngươi đang mang một thân xác khác? Hãy yêu thương người
đó như chính ngươi. Người đó cũng là một biểu hiện của Đấng Tối Cao, mà ngươi
không hề biết. Tha nhân là một cánh đồng nơi những mùa Xuân hy vọng của ngươi
trổ sinh tươi tốt và là nơi những mùa Đông của những khát vọng của ngươi mơ tưởng
đến những đỉnh núi tuyết. Tha nhân là một tấm gương soi trong đó ngươi tìm được
một niềm vui mà ngươi không hề biết và cảm nhận được một nỗi buồn ngươi không
muốn chia sẻ. Ta muốn ngươi yêu thương tha nhân như Ta đã yêu thương ngươi.”
Tôi liền hỏi Chúa: “Làm sao con yêu thương được một kẻ không yêu thương con
và đang thèm khát và muốn chiếm đoạt tài sản của con?”
Và Chúa đã trả lời: “Khi người đang cầm cày và gia nhân của ngươi đang gieo
hạt giống phía sau ngươi, lẽ nào ngươi dừng lại, quay đầu ra sau để xua đuổi một
con chim sẻ đang nhặt vài hạt giống của ngươi? Nếu ngươi làm như thế, ngươi chẳng
xứng đáng với những gì ngươi gặt hái được”
Khi Chúa Giêsu nói điều đó, tôi cảm thấy xấu hổ, không dám mở miệng nữa.
Nhưng tôi không thấy sợ, bởi vì Ngài vẫn mỉm cười với tôi.” (Kahlil Gibran,
Masterpieces, Axiom Australia, 2007, p.187).
Chúa Giêsu, trong trí tưởng tượng phong phú của Thi sĩ Kahlil Gibran, đã mỉm
cười với thánh Phêrô. Hẳn đó phải là một nụ cười của nhân ái và cảm thông. Kinh
Thánh đã chẳng ghi lại bất cứ nụ cười nào của Chúa Giêsu. Phải chăng vì cuộc đời
của Ngài gồm toàn một chuỗi của chống đối, khổ đau và cuối cùng là cái chết
trên thập tự, phải chăng vì Ngài đã có những lời lẽ cứng rắn đối với giai cấp
lãnh đạo tôn giáo thời Ngài...mà Ngài không hề biết cười? Sự gần gũi, thái độ cảm
thông của Ngài đối với những người bị đẩy ra bên lề xã hội cũng như sự ưu ái của
Ngài đối với trẻ em không cho phép tôi tưởng tượng ra khuôn mặt nghiêm khắc chẳng
bao giờ biết cười của Ngài. Tôi tin rằng Chúa Giêsu đã cười và cười một cách
thoải mái là khác, bởi vì Ngài không chỉ yêu mến tha nhân cho đến cùng, mà còn
trải dài tình yêu thương ấy đến muôn tạo vật, kể cả cỏ cây.
Tôi nhận ra nụ cười của cảm thông và tha thứ của Đức Phật qua nụ cười của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi cũng
nhìn thấy nụ cười của hồn nhiên, tử tế của Chúa Giêsu xuyên qua nụ cười của Đức
Phanxicô, nhà lãnh đạo tinh thần của hơn một tỷ người công giáo.
Mới đây, vị giáo hoàng này đã gây một tiếng vang đặc biệt, không những đối
với người công giáo, mà còn với toàn thể cộng đồng thế giới khi ngài cho công bố
một bức “thông điệp” dành riêng cho chủ đề bảo vệ môi sinh. Không thiếu những
người chống đối, nhứt là những người chối bỏ những bằng chứng khoa học về hiện
tượng trái đất đang hâm nóng và hành động hủy hoại của con người đối với môi
trường sống.
Tôi rất ít khi đọc hết một bức thông điệp của bất cứ một vị giáo hoàng nào.
Thường đó là cả một cuốn sách khô khan, trình bày vấn đề một cách hàn lâm, khó
hiểu đối với đa số những người bình dân như tôi. Tôi chỉ biết dựa vào những
phân tách của các học giả để nắm bắt nội dung của các bức thông điệp của các vị
giáo hoàng. Với Đức Phanxicô, mặc dù chưa đọc hoặc sẽ không đọc hết bức thông
điệp về môi sinh, tôi vẫn đón nhận lời giảng dạy của ngài về vấn đề môi sinh. Sở
dĩ tôi sẵn sàng đón nhận những lời giảng dạy của ngài về môi sinh là vì lúc nào
tôi cũng mường tượng ra nụ cười nhân ái và cảm thông của ngài.
Mỗi vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo đều để lại một dấu ấn đặc biệt. Nếu
tên tuổi của Đức Gioan Phaolô II, người Ba Lan, thường được thế giới nhắc nhớ
cùng với sự sụp đổ của bức tường Bá Linh và sự cáo chung của các chế độ cộng sản
tại Đông Âu và Nga, thì người tiền nhiệm của Đức Phanxicô là Đức Bênêđictô có lẽ
sẽ được tưởng nhớ nhiều nhứt vì đã làm một quyết định được xem là bất ngờ và
táo bạo nhứt trong lịch sử của Giáo hội Công giáo khi tuyên bố từ chức. Còn
riêng đối với Đức Phanxicô, thì tôi cho rằng về sau này người ta sẽ nhắc đến
ngài như vị giáo hoàng về môi sinh.
Tôi không ngạc nhiên khi ngài dành nguyên một thông điệp để kêu gọi tôn trọng
và bảo vệ môi sinh. Tên Phanxicô Assisi, vị thánh người Ý thời Trung Cổ, được
thế giới ngày nay xem như sứ giả của hòa bình, đã được vị giáo hoàng này chọn
làm tên riêng của mình. Với thế giới, ngài không còn là “Bergolio”, mà chỉ là
“Phanxicô”, tên của vị thánh mà tình yêu thương đối với người đồng loại cũng được
trải dài đến muôn vật, cỏ cây. Chính vì vậy mà mở đầu bức thông điệp, Đức
Phanxicô đã nhắc đến một “bài ca” của thánh Phanxicô, trong đó thánh nhân đã gọi
trái đất là “Chị” . “Chị Đất” ấy, như Đức Phanxicô đã viết trong những lời mở đầu
bức thông điệp, đang kêu khóc với chúng ta vì sự hãm hại mà chúng ta giáng xuống trên “Chị” do việc sử dụng thiếu trách nhiệm
và do sự lạm dụng những của cải mà Thiên Chúa đã ủy thác cho “Chị”.
Tựu trung, khi kêu gọi tôn trọng và
bảo vệ môi sinh, tức trái đất, Đức Phanxicô cũng lên án thái độ tham lam và ích
kỷ của con người thời đại trong việc sử dụng của cải vật chất. Chính vì không
nghĩ đến người khác và các thế hệ tương lai mà con người đã khai thác và sử dụng
bừa bãi người “Chị Đất”. Và dĩ nhiên, khi con người sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến
mình và những quyền lợi trước mắt của mình, thì không chỉ người “Chị Đất” bị hủy
hoại, mà chính sự sống của mọi người cũng bị đe dọa. Lũ lụt, hạn hán, cháy rừng...chính
là tiếng kêu thảm thiết của “Chị Đất”. “Chị Đất” lên tiếng kêu khóc để cảnh cáo
con người về nguy cơ bị hủy diệt mà nguyên nhân không gì khác hơn là sự khai
thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, lòng tham lam, thái độ ích kỷ của
con người.
Đối lại với lòng tham lam ích kỷ, tôn giáo nào, đạo nào, cũng đều nhắc nhở
con người rằng họ chỉ có thể được “cứu rỗi” bằng sự tử tế mà thôi. Khi con người
biết sống tử tế với người đồng loại, thì đương nhiên họ cũng sẽ tôn trọng và bảo
vệ người “Chị Đất”. Trong ý nghĩa ấy, tôn trọng và bảo vệ môi sinh trong thế giới
ngày nay, đã trở thành một “giới răn” mới và “đạo” hay “tôn giáo”, nói như Đức
Đạt Lai Lạt Ma, cũng thật đơn giản: chỉ có một đạo duy nhứt có giá trị “cứu rỗi”
cho mọi người là Đạo Tử Tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét