Chu Thập
23/11/18
Ở Úc, bước vào tháng Mười Một, khí trời ấm áp trở lại. Với
riêng tôi, mùa câu đã trở về. Làm gì thì làm, bận cỡ nào, thời tiết thay đổi cỡ
nào, tiện hay không tiện, tuần nào tôi cũng phải xách cần đi thử thời vận 2, 3
lần.
Câu là một thứ ghiền mà tôi dứt khoát không chịu bỏ. Nếu
tính từ lúc có trí khôn đến nay thì “ sự nghiệp” câu cá của tôi đã kéo dài
không dưới 65 năm. Nhiều bạn bè của tôi, vì nhiều lý do, đã gác cần. Riêng tôi
vẫn kiên trì...có lẽ cho đến chết thôi!
Tôi thích câu cá vì một lý do rất đơn giản: tôi thích ăn
cá hơn ăn thịt! Có người bảo: ăn nhiều cá thông minh ra! Điều này chẳng có giá
trị cho tôi và cho biết bao nhiêu dân “danh ca” suốt đời lam lũ, sống bằng cá,
mà vẫn cứ ngu và nghèo!
Mê câu cá vì thích ăn cá đã đành, nhưng càng thêm tuổi,
càng tập triết lý vụn vặt, tôi càng nghiệm ra rằng trong các thú tiêu khiển,
câu cá là “bộ môn thể thao” giúp tôi thư giãn nhiều nhứt. Dân câu cá là những
người dễ bắt chuyện và làm quen nhứt. Ở bãi câu dường như ai cũng dễ thấy mình
có tài hùng biện. Hễ gặp nhau, hỏi chuyện là tuôn ra đủ mọi kinh nghiệm và ngay
cả cách nhìn đời. Ngoài ra, những lúc hồi hộp kéo cá là những giây phút tôi cảm
thấy vui nhứt khi ra bãi câu. Nhưng dĩ nhiên vui nhứt là kéo được cá. Gặp một
con cá lớn, như ngư ông giữa biển cả, cuộc chiến đấu càng kéo dài, niềm vui
càng lớn. Hôm nào cầm một giỏ cá đầy đem về khoe với người thân và chia sớt cho
bạn bè, còn gì vui hơn. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng được thời vận đãi ngộ.
Như trong cả tháng vừa rồi chẳng hạn, không rõ cá còn đang kéo dài giấc ngủ mùa
đông hay kéo nhau đi nghỉ hè ở đâu hết mà hầu như ngày nào tôi cũng vác cần về
nhà với cái giỏ trống không và bộ mặt méo xẹo. Những lúc eo xèo như thế, tôi chỉ
còn biết tự an ủi: thôi thì ngắm trời ngắm đất cho đỡ buồn vậy! Và đây cũng chính là lúc cái khả năng triết
lý vụn bừng dậy để mách bảo tôi một điều đáng sợ nhứt trong thân phận con người:
đó là nỗi cơ đơn! Thành ra đi câu là để thư giãn, để tìm niềm vui mà cũng để thấy
mình cô đơn.
Thật ra tôi đâu phải là người duy nhứt cảm thấy cô đơn
trên mặt đất hay trên đất Úc này. Mới đây tôi đọc được trên trang mạng của Đài
ABC rằng một cuộc phân tách về những dữ kiện liên quan đến Nhà ở, Thu nhập và
Việc làm tại Úc Đại Lợi từ năm 2001 đến năm 2017 cho thấy cứ 6 người Úc thì có
trên một người cảm thấy cô đơn trong một năm hay trong một giai đoạn nào đó.
Cũng có trên 1.5 triệu người Úc cảm thấy tình trạng cô đơn kéo dài trong cả một
thập niên hoặc hơn.
Theo cuộc phân tách, phụ nữ dễ cảm thấy cô đơn hơn đàn
ông. Riêng đàn ông ở độ tuổi từ 45 đến 64 là những người cảm thấy cô đơn hơn cả.
Phần lớn là những người thất nghiệp, phải sống bằng trợ cấp xã hội và những người
cha đơn chiếc. Cuộc phân tách cũng cho biết: tuổi tác là một yếu tố quan trọng.
Càng lớn tuổi con người càng cảm thấy cô đơn.
Điều đáng sợ cho Úc Đại Lợi là các cuộc nghiên cứu cảnh
cáo rằng cô đơn có thể là sẽ là một vấn đề sức khỏe trầm trọng đối với xã hội.
Theo cuộc phân tách, cô đơn cũng có thể là một tên sát nhân thầm lặng không kém
gì những yếu tố gây nguy hiểm khác như thiếu vận động thể lý, béo phì, ma túy,
bia rượu, bệnh tâm thần, thương tích và bạo động.
Trong bản phúc trình có tựa đề “Dịch bệnh cô đơn từ năm
2001 đến năm 2017” (An Epidemic of Loneliness 2001-2017), bà Alison Brooks, Giám
đốc điều hành Cơ quan “Relationships Australia” chuyên nghiên cứu về những ích
lợi của việc xây dựng các mối quan hệ xã hội, nói rằng phần lớn người dân Úc
chưa ý thức được những mối nguy hại của sự cô đơn.
Úc Đại Lợi đã lên tiếng báo động về dịch bệnh cô đơn. Còn
ở những nơi khác thì sao? Ở đâu mà con người chẳng cảm thấy cô đơn. Ở địa vị xã
hội nào mà con người không cảm thấy cô đơn. Ngay cả những người đã sống hạnh
phúc cho đến đầu bạc răng long trong bậc vợ chồng cũng đâu có tránh khỏi cô đơn.
Từ Úc Đại Lợi, hãy thử nhìn sang Hoa Kỳ. Theo báo mạng
Psychologytoday, cách đây một năm, tại Thành phố Oakland, Tiểu bang California,
một nhóm khoảng 20 người đàn ông, tất cả đều là những người cha trong gia đình
tuổi từ 30 đến 40, đã gặp nhau tại một nhà riêng của một người trong nhóm để thảo
luận về sứ mệnh làm cha. Điều đáng báo động là khi được hỏi có bao nhiêu người
trong nhóm có những “người bạn thật sự” nghĩa là những người họ có thể tâm sự và chân thành chia sẻ cuộc sống trong
lúc hạnh phúc cũng như khi gặp hoạn nạn, chỉ có đúng 2 người trong số 20 người giơ
tay nói có!
Thật ra, nỗi cô đơn không miễn trừ một giới tính nào cả.
Đàn ông cũng như đàn bà, ở đâu cũng thế, đều có thể mắc dịch bệnh cô đơn. Theo
một cuộc nghiên cứu, có một tỷ lệ rất lớn người Mỹ cho biết mặc dù có rất nhiều
“nối kết” trên các trang mạng xã hội, nhưng lại có rất ít những quan hệ thực sự
thân thiết và cô đơn vẫn là lý do chính khiến người Mỹ đi gặp các chuyên gia
tâm lý để được cố vấn. Tôi nghĩ đến người đàn ông Mỹ giàu có và cũng có nhiều
quyền lực nhứt nước và nhứt thế giới hiện nay là Tổng thống Donald Trump.
Tôi không biết người đàn ông Mỹ luôn tự nhận là cái gì mình cũng
“nhứt” cả này có cảm thấy cô đơn không. Nhưng cứ nhìn lại chuyến đi Pháp vừa
qua của ông để tưởng niệm đúng 100 năm ngày chấm dứt Đệ nhứt Thế chiến, rồi đọc
lại những “tuýt” hằn học và, nói như một viên chức bộ ngoại giao Pháp, thiếu cả
lịch sự tối thiểu được ông bắn ra sau đó, cộng với việc thay đổi nhân sự diễn
ra như chong chóng trong Tòa Bạch Ốc...tôi không cho rằng sự giàu có và quyền lực
biến ông thành một người được miễn dịch khỏi nỗi cô đơn. Chính người con trai
trưởng của ông là Donald Trump Jr. cũng đã phải nhìn nhận rằng cha ông không
còn tin tưởng bất cứ ai trong Tòa Bạch Ốc (x. https://www.google.com.au/search?q=donald+jr+Trumo+%3A+my+father+don%27t+have+any+to+trust). Qua những “tuýt” được Tổng thống Trump gởi
đi từ mỗi sáng sớm, vào giữa lúc cả nước Mỹ chưa thức dậy, tính đến hôm nay,
ông đã quy tụ được trên 55 triệu rưỡi “tín đồ” (followers). Nhưng liệu con số người “đi theo” đông đảo đó có thể bảo
đảm cho ông khỏi rơi vào cô đơn không?
Nghịch lý lớn nhứt của thời đại kỹ thuật số ngày nay là
càng “nối kết” trên mạng, con người lại càng cô đơn. Nhưng các trang mạng xã hội
và các phương tiện truyền thông ngày càng tối tân có phải là nguyên nhân tạo ra
sự cô đơn của con người thời đại không? Thật ra phải nhìn nhận rằng các phương
tiện truyền thông hiện đại và các trang mạng xã hội như Facebook chẳng hạn, giúp cho con người cảm thấy được nối kết với
người khác và với cộng đồng của mình nhiều hơn. Vậy thì điều gì đã khiến cho
người Mỹ ngày càng tách biệt và xa cách với người khác?
Theo báo mạng Psychologytoday, vấn đề lớn nhứt nằm trong
ý thức hệ cá nhân chủ nghĩa của người Mỹ. Theo một cuộc nghiên cứu do Giáo sư
tâm lý Hazel Markus thuộc trường Đại học Stanford thực hiện, người Mỹ thích
nghĩ về mình như những con người độc lập, độc nhứt vô nhị và tự trị. Cũng như
các nền văn hóa đề cao cá nhân chủ nghĩa, như hầu hết các nền văn hóa Tây Âu và
ngay cả trong một số văn hóa của người di dân, người Mỹ lúc nào cũng muốn có một
chỗ “nổi bật”. Họ thích “chơi nổi”. Họ thích “làm nổi”.
Nhiều người cho rằng não trạng cá nhân chủ nghĩa của người
Mỹ phát xuất từ Đạo Tin Lành. Khác với Công giáo, Đạo Tin Lành khuyến khích con
người làm việc để chứng tỏ giá trị của mình. Chịu ảnh hưởng của Tin Lành, một số
nhà tư tưởng khẳng định rằng mỗi cá nhân cần phải tự mình nói lên tiếng nói của
mình, tìm ra con đường riêng cho mình. Triết gia Mỹ Ralph Waldo Emerson (1803-1882)
kêu gọi: “Hãy là chính mình. Không có ai tốt đẹp hơn để mô phỏng cho bằng chính
bạn”. “Giấc mơ Mỹ” đã được thai nghén từ niềm xác tín ấy!
Nói chung, với một nền kinh tế phồn thịnh nhứt thế giới,
với những phát minh đứng đầu thế giới, người Mỹ luôn tự hào về đất nước, về con
người, về sự độc lập và nhứt là về khả năng luôn thành công vượt bực của họ. “Nước
Mỹ lúc nào cũng vĩ đại”. Cố Tổng thống Ronald Reagan đã kêu gọi “làm cho nước Mỹ
vĩ đại trở lại”. Nay Tổng thống Trump cũng muốn tiếp tục niềm tự hào dân tộc ấy
khi ra rả lập lại khẩu hiệu ấy!
Viết trên báo mạng Psychologytoday, một chuyên gia tâm lý
Mỹ là Tiến sĩ Emma Seppala cho rằng có thể niềm tự hào về sự vĩ đại ấy là yếu tố
góp phần vào việc làm phát sinh cuộc khủng hoảng về cô đơn trong xã hội Mỹ hiện
nay. Người ta quên mất rằng nhu cầu lớn nhứt của con người, sau cái ăn, cái mặc,
cái nhà...là sự nối kết với người khác. Dẹp qua một bên các mối quan hệ xã hội
để chỉ chú tâm vào việc làm và sự thành công, con người dễ dàng bị cô lập hay tự
cô lập. Có người xem cuộc sống như một cuộc cạnh tranh không ngừng qua đó ai
cũng muốn được hơn người khác. Có người làm việc 12 tiếng đồng hồ mỗi ngày để bằng
mọi giá phải thành công. Và để gọi là “xả xú báp”, nhiều người tìm đến với men
rượu hay ngay cả ma túy hoặc phim ảnh. Người ta có tất cả, đạt được tất cả để rồi
tự chôn vùi trong nỗi cô đơn.
(x.https://www.psychologytoday.com/us/blog/feeling-it/201706/the-loneliness-epidemic-and-what-we-can-do-about-it).
Mỗi lần ngồi câu cá một mình bên bờ hồ, có khi lội dưới
nước giữa đêm tối, suy nghĩ miên man về nỗi cô đơn của mình, tôi không thể
không liên tưởng đến hình ảnh của lão ông trong quyển tiểu thuyết ngắn có tựa đề
“Ngư ông và Biển cả” (The Old Man and the Sea) của Văn hào Mỹ Ernest Hemingway (1899-1961).
Nhà văn này đã tự kết liễu cuộc sống bằng một viên đạn bắn vào đầu. Nhân vật
chính của câu chuyện là một lão ông người Cuba. Giữa biển khơi, trong 3 ngày
đêm ròng rã, ông đã chiến đấu để vật lộn với một con cá kiềm khổng lồ sau khi
con cá mắc câu. Sang đến ngày thứ ba, ông dùng lao đâm chết được con cá, buộc
nó vào mạn thuyền và lôi vào bờ. Nhưng dọc đường, đánh hơi được, một đàn cá mập
đã xông tới tấn công. Với một cố gắng phi thường, ngư ông đã giết được nhiều
con cá mập để bảo vệ chiến lợi phẩm của mình. Nhưng cuối cùng, khi về tới bến,
ông mới nhận thấy rằng con cá kiềm ông câu được đã bị đàn cá mập rỉa hết thịt,
chỉ còn trơ lại một bộ xương.
Chiến đấu đến cùng mà chẳng được gì, hình ảnh đơn độc của
ngư ông trên biển cả giúp tôi hiểu được phần nào nỗi cô đơn của Văn hào
Hemingway. Người ta chỉ tự tìm đến cái chết khi không còn đủ sức để chịu đựng nỗi
cô đơn của mình.
Nhưng cuộc chiến đấu cho tới cùng của ngư ông cũng cho
tôi thấy sự vĩ đại đích thực của con người, khi họ dám lội ngược dòng giữa một
đám đông bị lôi cuốn theo dòng thác lũ của những bản năng thấp hèn nhứt trong
con người. Thật ra, một trong những nghịch lý trong cuộc sống là có khi dám ra
khỏi cái vỏ kén “cái tôi” thấp hèn, nhỏ mọn, ích kỷ của mình để sống theo lương
tri, lẽ phải, sự thật và sống với tha nhân và cho tha nhân, con người mới có thể
chống chọi lại nỗi cô đơn của mình.