Tháng Tư 2010
Một ông bạn vong
niên của tôi ở Sydney cứ đôi ba tháng lại ghé thăm tôi. Ông đi thăm tôi như thể
gia đình người Việt nam trong chế độ cộng sản đi thăm những người bị giam tù.
Biết tôi sống nơi “thâm sơn cùng cốc”, xa ánh sáng văn minh của thủ đô tỵ nạn
Cabramatta, cho nên mỗi lần ghé thăm, ông thường tiếp tế đủ thứ: không mắm muối
gia vị, bánh chưng, bánh tét, trái cây nhiệt đới thì cũng gà quay, heo quay: những
thứ mà tôi khó tìm được ở địa phương mình.
Nhưng trong lần
“thăm nuôi” mới đây, ông bạn làm tôi sửng sốt như bị trời trồng khi ông “bày”
ra một đĩa gồm mấy hộp “take away” toàn là lưỡi vịt đã luộc sẵn, xếp thứ tự như
cá hộp, còn dính vào cái mỏ dài thòng. Tôi đã từng nuôi vịt xiêm, giống vịt mà
người miền Bắc gọi là ngan. Tôi chỉ thích món vịt nấu chao hay xáo măng. Ngoài
ra, thỉnh thoảng tôi cũng “xã giao” nếm thử một chút tiết canh vịt. Còn nhìn
cái cổ nổi gai đỏ lòm của con vịt cồ là tôi đã “nhợn” rồi, chứ đừng nói tới
chuyện thưởng thức lưỡi vịt. Vậy mà ông bạn tôi khẳng quyết: đây là món “quốc hồn
quốc túy” độc đáo của dân tộc! Tôi cũng theo thói thường “ăn cỗ đi trước lội nước theo sau”. Nhưng trong trường hợp này thì tôi
hơi chần chừ. Chờ cho ông bạn xé cái mỏ vịt, lôi cái lưỡi ra và cho vào miệng
nhai ngon lành, tôi mới có đủ can đảm “đi
theo sau”. Phải nói đây là một thứ “của ngon vật lạ” thật sự chứ không phải
cái “bánh vẽ” của nhà thơ Chế Lan
Viên khi phải nhai nhồm nhoàm cái chủ nghĩa cộng sản khó nuốt mà vẫn làm bộ lấy
làm thích thú!
Tôi không ngờ
ông bạn tôi lại sành ăn như thế. Lưỡi vịt quả là một món ăn độc đáo. Nhai và
thưởng thức cái lưỡi vịt, tôi không thể không liên tưởng đến cái “món lưỡi”
trong chuyện ngụ ngôn của nhà hiền triết Hy lạp Esope. Esope bị bắt làm nô lệ.
Một hôm người chủ mở tiệc đãi khách. Ông sai Esope nấu món ngon nhứt và chỉ dọn
một món ấy mà thôi. Esope ra chợ mua toàn là lưỡi về chế biến. Khai vị, món ăn
chính và tráng miệng: tất cả đều là lưỡi! Lúc đầu thực khách còn thưởng thức
món ăn. Nhưng chỉ một lúc sau, họ ngán đến “tận cổ”. Người chủ tra hỏi Esope: “Tại
sao ngươi chỉ dọn toàn là lưỡi?” Esope trả lời: “Ông không biết rằng lưỡi là
món ngon nhứt sao? Lưỡi là mối giây liên kết của đời sống văn minh; là chìa
khóa của khoa học; người ta dùng lưỡi để dạy dỗ, để thuyết phục, để thống trị
trong các buổi họp.”
Nghe thế, ông chủ
mới ra lệnh cho Esope: “Vậy thì ngày mai, ngươi hãy mua cho ta món ăn tồi tệ nhứt.
Ta sẽ mời lại cũng những thực khách ấy.” Lần này, Esope lại cũng chỉ mua toàn
là lưỡi về. Ông giải thích với chủ mình: “Đây là thứ tồi tệ nhứt. Nó là mẹ của
mọi cuộc tranh cãi, kiện tụng; nó là cội nguồn của chiến tranh, bôi nhọ và dối
trá.” Đúng là lưỡi không xương nhiều đường lắc léo!
Bởi cái món ngon
độc đáo mà ông bạn tôi đãi là “lưỡi vịt” cho nên tôi không chỉ liên tưởng đến món
lưỡi của Esope, mà còn nghĩ đến những gì mà “vịt” có thể gợi lên.Trước hết là
tuần báo Pháp có tên là “Le Canard
Enchainé” (con vịt bị trói). Hồi mới đến Pháp, tôi thích đọc báo này. Nó
không thuộc phe hữu cũng chẳng đứng về cánh tả. Nó không tha bất cứ một chính
trị gia nào. Tiếng là bị “trói”, nhưng con vịt chào đời từ năm 1915 này được
xem là “độc lập và tự do” nhứt trong các tờ báo tại quốc gia đã đi tiên phong
trong lý tưởng “bình đẳng, tự do và huynh đệ” này.
Từ tuần báo “Le
Canard Enchainé”, tôi lại nghĩ đến hai chữ “tin vịt” trong tiếng Việt nam.
Không biết có phải vì trong tiếng lóng của Pháp, “canard” cũng có nghĩa là “báo”,
mà người Việt nam vốn sính văn chương Pháp đã nghĩ ra hai tiếng “tin vịt”
không?
Tôi nghĩ: giá
ngày mùng một tháng Tư được gọi bằng “con vịt tháng Tư” thì có lẽ hay hơn là
“cá tháng Tư”. Mà nếu có gọi nguyên cái tháng Tư Đen là “vịt tháng Tư” thì chẳng
ngoa chút nào. Dân tộc Việt nam có bị đày đọa kể từ cái tháng Tư Đen ấy cũng chỉ
vì “cái lưỡi vịt” của những người cộng sản.
Kể từ cái tháng
Tư Đen ấy, cả bầu trời Việt nam đều bị nhận chìm trong dối trá. “Nói dối như Vẹm”:
có người cộng sản nào mà không nói dối. Có người dân nào sống dưới chế độ cộng
sản vì sợ mà không “dối” ít hay nhiều để sống còn. Phải gần đến cuối đời, trong
cơn sơn lúy túy và với nước mắt ràn rụa, nhà văn Nguyễn Tuân mới dám thú nhận: “Nhờ biết sợ mà tao mới có thể sống cho đến
ngày hôm nay.” Sợ cho nến dối trá là chuyện tất nhiên.
Hơn 700 tờ báo lớn
nhỏ, tất cả các đài truyền thanh truyền hình và vô số loa gắn ở khắp hang cùng
ngõ hẻm trong nước đều là những dụng cụ tra tấn người dân bằng độc một thứ tin
là “tin vịt”.
Trong cuốn sách
có tựa đề “Finding God in Unexpected Places”
(Tìm gặp Chúa trong những nơi không ngờ) tác giả Philip Yancey kể lại rằng sau
khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Nga, cái nôi khai sinh của chủ nghĩa cộng sản,
ông đã viếng thăm nước này và đặc biệt gặp gỡ với ban biên tập báo Pravda (sự thật).
Cùng với nhựt báo Izvestia (tin tức), Pravda là cơ quan ngôn luận chính thức của
đảng cộng sản Liên Xô.Tác giả cho biết: dưới thời cộng sản, người dân Nga thường
mỉa mai: “Không có Pravda (sự thật) trong
Izvestia (tin tức) và cũng chẳng có Izvestia (tin tức) trong Pravda (sự thật).”
Chính vì thế mà sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, con số độc giả từ 11 triệu người
sụt xuống chỉ còn 7 trăm ngàn người.
Mười một triệu độc
giả ấy chưa chắc đã là độc giả mua báo để “đọc”, mà thường là vì những mục đích
“thực dụng” hơn. Trong tuyển tập “Hẹn thắp
lên”, thu thập những lời chứng 20 năm từ năm 1975 đến năm 2000 dưới chế độ
cộng sản tại Việt nam, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan cũng nói đến một hiện tượng
tương tự. Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, báo “Nhân Dân”, cơ quan ngôn luận của Đảng
cộng sản Việt nam, tức 100 phần trăm là công cụ của Đảng, là tờ báo ít được
nhân dân đọc nhứt. Giáo sư Lan khẳng định: “Có
thể nói không quá đáng rằng 99 phần trăm người đọc báo ở thành phố Hồ Chí Minh
đều như người đang hầu chuyện quý vị, xuân thu nhị kỳ mới đụng tới một tờ Nhân
Dân. Còn các báo khác thì chỉ được chiếu cố là theo mức độ né tránh bớt vai trò
công cụ: các bài xã luận, xã thuyết, nghị quyết, v.v...chỉ đăng lấy có, còn lại
là phóng sự xã hội, chuyện màn ảnh, sân khấu, chuyện thể thao, bóng đá, các mục
tình cảm tâm lý, tình cảm vắn dài. Thi đua nhau ở phần còn lại này để hơn thua
về số lượng độc giả…” (Nguyễn ngọc Lan, Hẹn Thắp Lên, nhà xuất bản Trình Bày,
Strasbourg Salt Lake city, Hoa kỳ 2000 trg. 173)
Giáo sư Lan kể lại
rằng chiều 30 tháng 4 năm 1994, ông đang
ngồi xem bóng đá trên khán đài B sân Thống Nhất.Trời nóng 36 độ C. Có anh chàng
bán báo tinh khôn rao theo đường lối thực dụng của giai đoạn mới: “Trời nắng gắt,
dễ nhức đầu, mua báo đi”. Giáo sư Lan nói: “Lối
rao làm tôi nhớ lại cả một thời giấy gói không sẵn, bao nhựa tái chế cũng hiếm
đắt, thiên hạ vào bưu điện thành phố gặp lúc phát hành báo Nhân Dân, ai cũng đổ
xô lại giành mua báo rẻ mà nhân dân dùng được vào khối việc” (sđd)
Chuyện giáo sư
Lan kể trên đây đã xảy ra cách nay 15 năm. Tình thế có thay đổi, dân chúng
không còn nghèo đến nỗi mua báo công cụ chỉ để gói hàng hay che đầu gặp lúc trời
nóng. Nhưng chắc chắn nguyên tắc trước sau như một vẫn là: báo chí công cụ thì
chỉ để loan “tin vịt” mà thôi. Chỉ cần đọc lại “Báo Hà Nội Mới” trong những ngày xảy ra vụ Tòa khâm sứ cũ, giáo xứ
Thái Hà, Đồng Chiêm…hay những gì báo đài nhà nước Cộng sản Việt nam viết về đức
cha Ngô Quang Kiệt, tổng giám mục Hà nội, thì cũng đủ để biết rằng những ngòi
bút bị uốn cong và những “chiếc lưỡi gỗ”, cũng theo kiểu nói của giáo sư Lan, vừa
“ngủ gật vừa làm báo”.
Chỉ tội cho người
dân Việt nam hiện nay. Sống dưới chế độ cộng sản, thì chẳng khác nào một võ sĩ
thượng đài nhưng bị trói tay. Đối thủ vừa thổi còi vừa “tự do” đấm đá. Đây là
thứ tự do mà có lần ông Đỗ Mười đã giải thích với các ký giả công cụ: “Các anh
hoàn toàn có tự do. Đó là tự do chửi đế quốc tư bản”.
Một trong những
may mắn mà tôi cho là lớn nhứt đối với tôi chính là được sống trong một thế giới
có tự do báo chí. Dĩ nhiên, ở đâu mà chẳng có “tin vịt”. Thời nào và ở đâu cũng
có những anh nhà báo “nói láo ăn tiền”.
Nhưng ít nhứt, tôi biết rằng trong thế giới tự do, tôi có thể kiểm chứng “tin vịt”
và lên án sự dối trá trong các cơ quan truyền thông.
Điển hình nhứt
là chuyện đang xảy ra cho Giáo hội Công giáo trong thời gian gần đây. Các cơ
quan truyền thông tại Âu Châu và Hoa Kỳ đang triệt để khai thác vụ tai tiếng về
lạm dụng tình dục trẻ em trong Giáo hội Công giáo. Cũng như mọi người, tôi lên
án những hành động đồi bại ghê tởm của một số linh mục Công giáo. Riêng là một
người Công giáo, tôi cảm thấy “xấu hổ” trước những hành động này và nhứt là tôi
cảm thấy bị tổn thương nặng nề khi vị thủ lãnh tối cao của chúng tôi là đức
giáo hoàng đang là bị một số cơ quan truyền thông chĩa mũi dùi vào và qui trách
cho đủ mọi thứ tội lỗi khủng khiếp nhứt. Có người còn đề nghị đưa ngài ra trước
tòa án quốc tế để xét xử về điều gọi là “tội ác chống lại nhân loại”. Như thế
thì đức giáo hoàng, người mà chúng tôi xem là cha chung, lại bị người ta xếp
ngang hàng với những đồ tể khát máu của nhân loại chẳng khác nào Hitler,
Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot…Dĩ nhiên, xuyên qua đức giáo hoàng, người ta nhắm
đến toàn thể Giáo hội Công giáo của chúng tôi.
Cũng may, sau
khi đọc một số bài viết trên báo Việt Luận “Kiện
Tòa Thánh Vatican?” (Việt Luận 30/3/2010), “Vatican gây sóng gió trong Lễ Phục Sinh” và “Đức giáo hoàng trước nghiệp chướng” (Việt luận 6/4/2010), tôi đã
đi tìm đọc những bài báo của những tờ báo lớn nhứt tại Hoa kỳ có nói đến vụ tai
tiếng này. Tôi tìm thấy rằng “The New York Times” là tờ báo đã bắn phát súng lệnh
khai hỏa việc khai thác vấn đề này. Đọc những tờ báo khác, tôi cũng biết rằng tờ
báo này đã cố tình xuyên tạc sự thật khi cho rằng đức giáo hoàng Benedicto XVI đã
“bao che” những vụ lạm dụng tình dục trẻ em câm điếc của một linh mục Hoa kỳ.
Giả như đang sống
trong thời kỳ bưng bít dưới chế độ cộng sản trước đây, và “The New York Times”
là tờ báo duy nhất của chế độ, thì chắc chắn nhiều người sẽ tin như đinh đóng cột
“những tiết lộ” của báo này. Nhưng cũng may cho tôi, tờ The New York Times
không phải là tờ báo “độc nhứt” tại Hoa kỳ, cho dẫu đây là một trong những tờ
báo có nhiều độc giả nhứt tại nước này. Bên cạnh tờ báo này, còn có không biết
bao nhiêu tờ báo và tạp chí có uy tín khác. Trong số ra ngày 8 tháng 3 vừa qua
chẳng hạn, tạp chí Newsweek đã có một
cái nhìn quân bình và tôn trọng sự thật hơn về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em
trong Giáo hội Công giáo. Tôi cũng có thể đọc được nhiều phản ứng khác và một
cái nhìn khác với báo The New York Times.
Tựu trung, trên
võ đài “truyền thông” ở những nước có tự do báo chí, tôi biết mình không bị bịt
miệng, che mắt và trói tay. Tôi có thể và có quyền đọc đủ mọi báo khác nhau để
kiểm chứng những thứ “tin vịt”.
Nhân mấy cái “lưỡi
vịt” đưa cay của ông bạn cố tri, nếu tôi có lan man dông dài về chuyện truyền
thông là cũng chỉ để tự nhắc lại cho mình một đòi hỏi luân lý là phải tôn trọng
sự thật. Ngành nghề nào cũng có đạo đức chức nghiệp.Tôi không thể vì mục đích
tiếp thị hay thu hút độc giả mà tung ra “tin vịt” hay tạo ra những “tin đồn” thất
thiệt và nhứt là dối trá có thể làm hại người khác.
Thoát khỏi chế độ
xây dựng trên dối trá, tôi có một cuộc sống xứng với phẩm giá con người và hưởng
được mọi tự do. Nhưng tôi thấy mình chỉ thật sự tự do khi sống cho sự thật, bởi
vì như Chúa Giêsu đã dạy: “Sự thật sẽ giải
thoát các ngươi” (Gioan 8, 32). Tôi lại càng cảm thấy được thúc đẩy để tôn
trọng sự thật hơn bởi vì cũng chính Ngài dạy: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi Ma Quỉ
mà ra” (Mathêu 5, 37).