Chu Thập
Mùa Chay 2011
Thể thao cũng giống như ẩm thực. Trong ăn uống, mình thích món này, nhưng lại không ưa món khác. Về thể thao, mình có thể say mê môn này nhưng lại chê môn khác. Sở thích cũng như văn hóa ảnh hưởng đến khẩu vị và chọn lựa của mỗi người. Người dân cựu thuộc địa của Pháp thích bóng đá và chuộng bánh mì Tây. Người dân trong khối Thịnh Vượng Chung của Anh thì dĩ nhiên chỉ ưa cricket và quen với bánh sandwich.
Tôi có thể thích
nghi với mọi món ăn. Nhưng trong thể thao, có những môn tôi không thể “nuốt”
được. Tôi có một kinh nghiệm “bi đát” về môn Golf. Đó là năm cuối của bậc trung
học khi tôi theo học tại Đà lạt, thành phố mộng mơ mà trước năm 75 ai cũng mong
được một lần đến thăm viếng. Với khí hậu ôn đới và với núi rừng trùng điệp, chỗ
nào của thành phố này cũng là “danh lam thắng cảnh” đối với đôi mắt nai vàng ngơ ngác của một cậu học sinh nhà quê như tôi.
Nhưng nơi mà những ngày nghỉ tôi thường đến nhứt là “Đồi Cù” nằm bên cạnh bờ hồ
Xuân Hương. Được gọi là “đồi cù” vì đây là sân Golf, môn thể thao mà tôi chỉ biết
được khi lên Đà Lạt. Lần đầu tiên khi thấy cái cảnh những người nhà giàu cầm gậy
đánh banh, bên cạnh họ có cả một đoàn người “hầu hạ” mang bị chuyên đi lượm
banh, máu “cách mạng” liền sôi sục khiến tôi nổi giận thốt lên với các bạn: “Đã chơi thể thao mà
còn có người hầu hạ thì còn gì là thể thao nữa.” Để gọi là “trả thù”, bọn thanh
niên chúng tôi chẳng biết làm gì hơn là bắt chước các đôi tình nhân, ngồi nép
dưới mấy gốc thông, chờ cho trái banh cù rơi xuống là lượm cho vào túi hoặc ném
đi một nơi khác cho bõ ghét. Chỉ tội cho mấy người đi theo hầu những tay thể
thao “trưởng giả”, tìm mãi mà chẳng thấy trái banh cù đâu cả!
Tôi không những
không ưa mà còn “ghét” cái môn thể thao ấy. Tôi còn nhớ: khi nhà độc tài quân
phiệt Than Shwe của Miến điện sang thăm Phi luật tân và được nước chủ nhà “đãi”
cho một chầu chơi Golf, một ký giả nào
đó đã viết rằng “không có một nhà độc
tài nào có thể chơi Golf với một lương
tâm yên ổn”. Điều này thì chắc chắn đúng cho giới lãnh đạo và các nhà tư bản đỏ
hiện nay tại Việt nam. Cách đây không lâu, tôi lại nhìn thấy cái cảnh bất công ấy
trong một chương trình du lịch ẩm thực của Luke Nguyễn được chiếu trên đài SBS:
vẫn cái cảnh bao nhiêu đất đai canh tác của người dân nghèo biến thành sân Golf
và những nhà thể thao “trưởng giả” ăn mặc bảnh bao được một đám người nghèo hầu
hạ đi theo bên cạnh để nhặt banh cho.
Cũng may, ở các
nước Tây phương, tôi không còn thấy cái cảnh chơi thể thao trưởng giả ấy nữa:
ai chơi thì chịu khó mà đi lượm banh chứ chẳng có ai đi hầu hạ mình cả. Dù vậy,
cho dẫu cả thế giới có ngưỡng mộ tài nghệ của Tiger Woods đến đâu đi nữa, thì cái ác cảm ban đầu của tôi đối với môn thể
thao này cũng vẫn còn đó.
Ý thức về công
bình khiến tôi “ghét” cái môn “banh cù” đã đành, mà sự thiếu hiểu biết về thể
thao cũng làm cho tôi có thành kiến về một số môn khác. Một cách đặc biệt tôi
không thể nào “thích” được cái môn Cricket mà người Úc đang say mê như điếu đổ.
Ngày nào, tôi cũng theo dõi tin tức về thể thao trên truyền hình. Nhưng hễ đến
cái mục “Cricket” là tôi muốn đóng máy lại. Đúng là “vô tri bất mộ”. Để tỏ ra “thức
thời” và sành điệu như mọi người Úc, tôi cũng đã bỏ ra không biết bao nhiêu giờ
để xem các trận đấu. Tôi cũng đã nhờ bao nhiêu người giảng giải tường tận cho
tôi về cách chơi và luật chơi của bộ môn này. Nhưng với cái đầu có sạn của tôi
thì nhà chuyên môn nào của cricket cũng đành chịu thua. Cho tới giờ phút này,
tôi cũng vẫn mãi mãi là một tên “ngoại đạo” đối với bộ môn này. Không những tôi
thấy cái môn thể thao này “boring”, nó còn làm cho tôi “bực mình” là khác. Nhứt
là cuối năm vừa qua khi diễn ra cái giải “Ashes”
giữa Anh và Úc nghe chẳng giống ai cả. Ngày nào tôi cũng bị bắt buộc phải theo
dõi và chẳng hiểu gì về các trận đấu. Lại thêm cái tiếng Anh khập khiễng của
tôi nữa. Đúng hơn, cái tiếng Anh của người Úc cũng chẳng giống ai. Ngoài cái giọng
“oi oi” lại còn có những tiếng chẳng có trong tự điển. Hồi mới đến trại tỵ nạn,
tôi nghe người ta gọi một số phụ nữ Úc “cao lớn” làm việc trong các bệnh xá là
“sister”. Tôi cứ nghĩ đây là một từ tương đương với hai tiếng “ma xơ” dễ thương
của người Việt nam để chỉ các nữ tu công giáo. Thì ra, cách đây 30 năm về trước,
người dân Úc vẫn còn gọi các nữ y tá là “sister”. Cũng về y tế, người Úc gọi
phòng mổ là “theatre” khiến cho báo chí ở Việt nam bé cái lầm, cứ đụng tới chuyện
giải phẫu ở Úc là nói đến “hí viện trong
nhà thương”. Còn có một từ khác mà lúc mới đến Úc, tôi chẳng hiểu ra làm sao cả:
ngày 26 tháng 12 được gọi là ngày “Boxing Day”. Với cái đầu thường bị “điều kiện
hóa” bởi thể thao, tôi liền liên tưởng đến cái môn quyền Anh mà tôi cũng chẳng
ưa thích được vì nó dã man còn hơn cả môn đá gà của người Việt nam, người Phi
luật tân hay người Châu mỹ Latinh. Cũng may, tôi chưa từng dịch từ “boxing day”
cho ai nghe cả chứ báo chí ở trong nước thì đã nhanh nhẩu rồi. Thiệt là quê độ!
Bây giờ đến cái
chữ “Ashes” trong các trận thi đấu Cricket kéo dài hàng tháng giữa Anh và Úc.
Cũng may, thời buổi “a còng” này, chuyện gì cũng có thể hỏi ông “Google” được.
Sợ người ta cười vì sự dốt nát của mình, cho nên tôi đã âm thầm gõ chữ “Ashes”
vào Google.
Ông thày Google
giải thích cho tôi như thế này: “Ashes” là tên của một loạt trận thi đấu
Cricket giữa Anh và Úc. Đây là trận thi đấu quốc tế Cricket nổi tiếng nhứt có từ năm 1882. Hiện nay, các
trận thi đấu này diễn ra hai năm một lần, hoặc tại Vương quốc Anh hoặc tại xứ
Úc miệt dưới.
Sở dĩ các trận đấu
được gọi là “Ashes” tức “tro bụi” là do một bản cáo phó đầy châm biếm được đăng
trên báo “The Sporting Times” xuất bản tại Anh quốc năm 1882. Sau một trận đấu
tại sân “The Oval” trong đó lần đầu tiên Úc đánh bại Anh ngay trên sân nhà của
Anh, Báo “The Sporting Times” cho đăng một
bản cáo phó với nội dung như sau: “môn Cricket của Anh đã chết và thi hài sẽ được
hỏa táng và tro cốt sẽ được mang về Úc”. Sau đó, báo chí Anh gọi chuyến thi
đấu của Anh tại Úc là chuyến đi giành lại tro cốt. Nhân dịp này, một nhóm phụ nữ
tại Melbourne đã trao cho thủ quân Ivo Bligh của Anh một bình đất nung trong đó
có chứa đựng “tro” của một mảnh gỗ Cricket bị đốt. Kể từ đó, các trận thi đấu
giữa hai nước đều gọi là “Ashes”.
Thật ra, cái
bình đựng tro này không phải là một chiếc “cup” mà chỉ tượng trưng cho sự chiến
thắng. Đội nào thắng sẽ giữ cái bình tro này và đội kia cố gắng giành lại cái
bình ấy. Nhưng dù có giải thích như thế nào đi nữa, “Ashes” (tro bụi) vẫn là
cái thứ mà hai đội tuyển Criclet Anh và Úc cố tranh cho bằng được trong các trận
thi đấu 2 năm một lần này. Tự nhiên, tôi lại nghĩ đến cách suy nghĩ rất dễ
thương của mấy cụ bà nhà quê khi nhìn một trận đấu bóng đá: tại sao không phát
cho mỗi người một trái banh để họ khỏi nhọc công tranh giành một trái như thế?
Nghe thì buồn cười,
nhưng ngẫm nghĩ thấy cũng có cái lý thâm sâu của nó. Phải chăng trong cuộc đời
ô trọc này, lắm khi người ta lại chẳng tranh nhau “từ chết đến bị thương” vì những
thứ phù phiếm?
Ý nghĩ này thường
đến với tôi mỗi khi tham dự một nghi lễ an táng trong đó vị linh mục hay mục sư
của Kitô giáo thường đọc cái công thức quen thuộc “Ashes to ashes” (Bụi tro trở
về tro bụi) khi cho hạ quan tài xuống lòng đất. Cứ nghe văng vẳng bên tai câu
hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “Hạt bụi
nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”. Năm nay, vào ngày 9 tháng 3, ngày mà Giáo hội
công giáo gọi là Thứ Tư Lễ Tro bắt đầu Mùa Chay kéo dài 5 tuần lễ, ý nghĩ ấy
cũng trở về với tôi, khi tôi đón nhận một chút tro được rắc trên đầu. Câu hát
quen thuộc “người ơi, hãy nhớ mình là tro
bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro” nghe não nuột, nhưng lại nhắc nhở tôi
cái chân lý sâu xa về kiếp người.
Là một tín hữu
Kitô, tôi được học biết rằng tro bụi, trong các tôn giáo cổ xưa như Do thái
giáo chẳng hạn, tượng trưng cho tội lỗi và kiếp sống mong manh của con người. Theo
truyền thống Do thái giáo, trái tim của người tội lỗi cũng giống như tro bụi. Kẻ
gian ác sẽ bị người công chính chà đạp dưới chân như tro bụi. Do đó, thời xa
xưa, khi ngồi trên tro bụi hay trét tro bụi vào người, người Do thái muốn công
khai xưng thú rằng mình là một người tội lỗi. Theo truyền thống ấy, Kitô giáo
cũng nhìn nhận tro bụi như biểu trưng của tội lỗi và tính cách mong manh của kiếp
người.
Nhưng dù hiểu
như thế nào đi nữa, tro bụi cũng đều gợi lên sự mong manh, chóng qua và mỏng
dòn của cuộc sống con người. Mọi sự đều qua đi như tro bụi. Của cải, quyền lực,
tiền bạc, danh vọng, thành đạt, thất bại…tất cả đều đến rồi đi. Mọi sự đều có một
khởi đầu và một kết thúc. Mỗi một kinh nghiệm tôi có rồi cũng qua đi. Mỗi ý
nghĩ tôi có đều khởi sự và cũng biến mất. Mỗi sự nghiệp tôi đổ mồ hôi, xót con
mắt để có rồi cũng có ngày chấm dứt. Mỗi cảm xúc tôi trải nghiệm cũng đều như lớp
sóng vỗ vào bờ. Vui tươi, phấn khởi, hạnh phúc, buồn khổ, ganh tỵ, thất vọng,
trầm cảm, giận dữ, yêu thương, tủi hổ, hãnh diện…tất cả những cảm xúc ấy cũng đến,
ở lại trong tôi một thời gian rồi cũng tan thành mây khói. Khi tôi trở thành
tro bụi thì tất cả những gì thuộc về tôi cũng thành tro bụi. Tiền tỷ tôi có
trong ngân hàng cũng chỉ là tro bụi, bởi lẽ một khi tôi trở thành tro bụi nó
cũng chẳng còn bám được vào tôi một mẩy
may nào. Ngay cả những bất động sản tôi chiếm hữu được xét cho cùng cũng chỉ là
tro bụi đối với một kẻ trắng tay nằm trơ trơ trong ba tấc đất.
Không cần phải đợi
một trăm năm sau để tự hỏi như cụ Nguyễn Du: liệu có ai còn khóc mình không? Mỗi
một tiếng gõ của đồng hồ phải chăng không là hồi chuông báo tử cho từng giây
phút, từng cảm nghiệm, từng tình huống của cuộc sống chóng qua này?
Thật ra, ý tưởng
này không đến nỗi làm cho tôi bi quan và phó mặc cho dòng đời đưa đẩy. Đến từ
tro bụi rồi lại trở về với bụi tro. Nhưng cái khoảng cách thời gian giữa hai lằn
mức đó lại là một cái gì đáng nói. Nó có thể thoáng qua như một cơn gió thoảng
hay lưu lại dấu ấn muôn đời. Khoảng cách từ tro bụi đến bụi tro của một bậc
thánh hiền khác xa với một người gian ác. Mahatma Gandhi cũng đã từng xem cuộc
đời này là tro bụi: ông sống tiết dục, ăn uống đạm bạc và ngay cả chay tịnh, phục
sức một cách đơn giản hết sức có thể. Ông cũng ngã gục và trở về cát bụi như mọi
người. Nhưng tên tuổi của ông vẫn sống mãi trong lòng dân tộc Ấn độ và trong ký
ức của nhân loại như một bậc thánh hiền. Bông hoa của tình thương, sự tha thứ vẫn
mãi mãi trổ sinh trên cát bụi cuộc đời của ông. Từ “tro bụi trở về bụi tro” của Gandhi là một nước Ấn độ độc lập và
ngày càng tiến bộ.
Những tay tổ Cộng
sản như Lênin, Stalin, Mao trạch Đông, Hồ Chí Minh…cũng “từ tro bụi” mà đến, dù xác họ có được ướp và bảo quản một cách tốn
kém hay được đặt vào lăng tẩm để kính viếng, thì cũng có khác gì “trở về bụi tro”. Nhưng giữa “Ashes to ashes” họ đã để lại những gì nếu
không phải là tang tóc cho hàng trăm triệu con người và hơn hai tỷ người đau khổ
gần suốt thế kỷ 20 và những cuộc chiến tranh tàn khốc liên lụy đến cả thế giới?
“Tro
bụi trở về bụi tro”. Nhưng nếu được nhớ đến như là hình ảnh
của tình thương, của an bình, của nhân ái…thì khi đó con người sinh ra không phải
chỉ để chết nhưng để trở thành bất tử.