Chu Thập
10.7.15

Tôi thấy thương cho đất nước và dân tộc đã từng khai sáng cho thế giới về
triết học, khoa học và ngay cả về dân chủ. Suy nghĩ về vận mệnh của đất nước
này, tôi thường liên tưởng đến điều thường được gọi là “bi kịch Hy Lạp”.
Thời còn đi học, tôi có dịp tham gia diễn xuất trong vở kịch có tựa đề “Vua
Oedipe” (Oedipe Roi),
một phóng tác từ một bi kịch của kịch tác gia nổi tiếng của
Hy Lạp Sophocles (496 - 406 trước Công nguyên). Theo câu truyện, Oedipe vừa lên
ngôi tại thành Thebes, sau khi đã giết được Laios, vua thành này và cưới người
vợ góa của ông. Không bao lâu sau khi vua Oedipe lên ngôi thì trong thành
Thebes đã xảy ra một trận dịch sát hại dân chúng cũng như gây thiệt hại cho súc
vật và mùa màng. Theo thần thoại Hy Lạp, người dân Thebes tin rằng chính thần
Apollo đã gởi ôn dịch đến để trừng phạt dân chúng vì một tội ác tày đình đã xảy
ra trong thành. Nhà vua sai người đến đền thờ Apollo để tìm hiểu lời sấm về vấn
đề này và quyết tâm đưa ra ánh sáng về tội ác mà ai đó đã phạm. Để tiến hành cuộc
điều tra, ông cho triệu vào hoàng cung một thày bói nổi tiếng tên là Tiresias.
Lúc đầu, ông thày bói này do dự không muốn nói lên sự thật. Nhưng bị tra gạn tới
cùng, ông mới tiết lộ rằng thủ phạm gây ra tội ác khiến thần Apollo phải thịnh
nộ gởi ôn dịch đến không ai khác hơn là chính nhà vua. Theo dẫn giải của thày
bói Teresias, khi Oedipe chào đời, vua Laios và hoàng hậu Jocaste đã nhận được
một lời sấm cho biết sau này con trai của họ sẽ giết cha và cưới mẹ làm vợ. Sợ
điều đó sẽ xảy ra, vua và hoàng hậu mới lén lút cho người đưa đứa con còn đỏ hỏn
của mình lên một vùng núi và giao cho một mục tử. Riêng hoàng hậu Jocaste còn
ra lệnh cho người mục tử phải ra tay giết đứa con của mình, nhưng người này đã
lén lút trao cậu bé cho vua và hoàng hậu thành Corinthe để nhận làm con nuôi. Được lớn lên trong hoàng
cung, Oedipe vẫn tin tưởng rằng cha mẹ ruột của mình là vua và hoàng hậu thành
Corinthe. Đến tuổi trưởng thành, hoàng tử Oedipe đã vâng lệnh vua cha mở cuộc
chinh phạt sang thành Thebes và lời sấm đã được ứng nghiệm: chàng thanh niên đã
giết vua Laios, tức cha mình và cưới hoàng hậu Jocaste, tức mẹ mình. Kết quả cuộc
điều tra đã đặt vua Oedipe trước một sự thật phũ phàng. Biết không thể chạy trốn
khỏi sự thật, Oedipe đã tự móc mắt và rời bỏ cung điện để đi lang thang, chấp
nhận bị nguyền rủa bởi định mệnh nghiệt ngã của mình. Nó nghiệt ngã hơn nhiều
so với thứ “mặc cảm Oedipe” mà cha đẻ của phân tâm học Sigmund Freud
(1856-1939) nói đến khi ông giải thích về sự gắn bó và hướng chiều tự nhiên của
con trai đối với mẹ.
Định mệnh của Oedipe quả là khắc nghiệt. Khắc nghiệt đến nỗi, dù có cố gắng
“nhập vai” cách mấy, tôi cũng không thể nào có thể sống được bi kịch này. So với
bi kịch của Thúy Kiều hay ngay cả Vi Cố trong sự tích Tơ Hồng, tôi vẫn thấy “bi
kịch Hy Lạp” là một định mệnh khủng khiếp, vượt quá óc tưởng tượng và sức chịu
đựng của con người. Nhưng đây lại là một trong những đề tài rất ăn khách của
các kịch tác gia nổi tiếng của Hy Lạp vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyên như
Eschyles, Sophocles và Euripides. Thật ra các nhà tư tưởng này cũng chỉ diễn tả
một niềm tin rất phổ biến của người Hy Lạp vào thời đó. Thuyết định mệnh, theo
đó con người bị đè bẹp dưới sức nặng của một thứ số phận bất khả di dịch do thần
linh áp đặt, là niềm tin rất phổ biến của người Hy Lạp thời cổ. Trước những biến
cố không thể giải thích được, con người đi tìm một giải thích dễ dãi nhứt: cứ
gán cho thần linh là xong chuyện!
Nhưng “bi kịch Hy Lạp” xem ra không chỉ có ở Hy Lạp. Qua Truyện Kiều, dường
như cụ Tiên Điền Nguyễn Du cũng có cùng một niềm tin như thế khi cụ than thở:
“Ngẫm hay muôn sự tại Trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần,
phải phong trần. Cho thanh cao, mới được phần thanh cao”.
“Muôn sự tại Trời”: đã “trót mang tiếng khóc vào đời”, hẳn ai cũng có một định
mệnh hay số phận nào đó mà mình không thể thay đổi. Tôi đâu có được hỏi ý kiến
để được sinh ra. Tôi đâu có chọn lựa cha mẹ để làm người. Tôi cũng đâu có quyền
để chọn lựa phái tính. Tôi mang theo cả một “lộ đồ gen” di truyền khiến tôi
không thể tránh khỏi một số bệnh tật. Tôi cũng chẳng được hỏi có muốn làm người
Việt Nam hay không...Đó là định mệnh mà tôi không thể nào thay đổi hay đảo ngược
được.
Tuy nhiên, khi nhìn lại cuộc hành trình và những cố gắng để sống cho ra người,
tôi lại thấy mình là một người có tự do. Dĩ nhiên, có biết bao nhiêu lần trong
cuộc đời tôi đã làm những quyết định nông nổi, thiếu suy nghĩ, thiếu tự do, cứ
như thể tôi bị thúc đẩy bởi những “nội lực” mù quáng, hoàn toàn nằm bên ngoài sự
kiểm soát của lý trí và ý chí. Nhưng bù lại, cũng có biết bao nhiêu lần, trước
khi làm một điều gì đó, tôi thấy mình cũng đã suy nghĩ, đắn đo và cuối cùng nhận
lấy tất cả trách nhiệm về hành động của mình. Tôi thấy mình là một con người có
tự do. Tự do để suy nghĩ và chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình. Tự do để
không chấp nhận đầu hàng trước nghịch cảnh và những thách đố trong cuộc sống.
Tôi không phải là người đơn độc trong việc sử dụng tự do và chấp nhận trách
nhiệm về cuộc sống và việc làm của mình. Xung quanh tôi có biết bao nhiêu người,
dù sinh ra dưới một ngôi sao còn xấu hơn ngôi sao của tôi nhiều, vẫn “vượt qua
được số phận” để có một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích cho xã hội. Ngoài ra, xã hội
loài người cũng mặc nhiên chấp nhận thuộc tính cao quý nhứt của con người là tự
do. Bất cứ một bản án hay nhà tù nào cũng đều là một bằng chứng về tự do và
trách nhiệm của con người. Ai cũng chấp nhận một cách suy nghĩ thông thường: có
làm có chịu chớ không đổ lỗi cho người khác hay trời gần trời xa nào cả!
Suy nghĩ về tự do và trách nhiệm của bản thân, tôi thấy những phạm trù như
định mệnh và số phận không phải là một thứ an bài bất biến hay nghiệt ngã được
sắp xếp bởi một ông Trời, một Thượng Đế hay thần linh nào đó nhằm để ân thưởng
hay trừng phạt con người vì một tội ác nào đó. “Bi kịch” của người Hy Lạp,
xuyên qua bi kịch của vua Oedipe, chính là lúc nào cũng cảm thấy có một bàn tay
của thần linh hay thượng đế đè nặng trên mình vì tội ác của mình hoặc ngay cả tội
ác của một người khác chẳng có liên hệ gì đến mình. Không biết đó có phải là một
thứ tâm lý thông thường của con người từ cổ chí kim không. Ngay cả trong Kitô
giáo mà tôi đã thấm nhuần từ tấm bé, dường như sự trừng phạt của Thượng Đế lúc
nào cũng rình rập các tín hữu. Ngay từ thế kỷ thứ 5 sau công nguyên, khi vua
Attila của người Hung từ miền Bắc Âu Châu tràn xuống phía nam, đe dọa đế quốc
La Mã theo Kitô giáo, người ta đã bắt đầu có lối suy nghĩ như thế. Đoàn quân của
Attila đi đến đâu reo giắc kinh hoàng đến đó. Truyền thống Kitô giáo xuyên qua
các thời đại đã gọi ông là “tai họa do Đức Chúa Trời” (Fléau de Dieu) giáng xuống
hoặc là “chiếc roi” (Rotin de Dieu) Đức Chúa Trời dùng để trừng phạt đế quốc La Mã - Kitô giáo tội lỗi.
Khi đế quốc cộng sản được thiết lập ở
Nga và nhuộm đỏ hầu như toàn thế giới, cũng không thiếu người giải thích các biến
cố theo nhãn quan ấy: Đức Chúa Trời đã dùng cộng sản để thanh luyện loài người!
Gần đây, khi dịch bệnh liệt kháng AIDS/HIV lan tràn khắp thế giới, một lối giải
thích như thế cũng được đưa ra: Đức Chúa Trời lại dùng thứ dịch bệnh khủng khiếp
này để trừng phạt loài người vì sự sa đọa vô phương cứu chữa của nó!
Tôi thấy thần Apollo của thần thoại Hy Lạp quả là bất công và độc ác. Dĩ
nhiên, trong thần thoại Hy Lạp, ông thần và bà thần nào mà không cư xử với đủ
thứ hỷ nộ ái ố...của loài người. Ông thần này không những bắt Oedipe phải gánh
chịu một định mệnh khắc nghiệt không lối thoát, lại còn buộc tội ông để trừng
phạt thần dân của ông. Đức Chúa Trời của tôi, xuyên qua lịch sử của dân Do Thái
và trong cách suy nghĩ của không ít tín hữu Kitô ngày nay, cũng đâu có kém gì.
Để giải thoát “dân riêng” của Ngài, Ngài đã sai một vị sứ thần xuống tàn sát tất
cả những đứa con đầu lòng của người Ai Cập. Tôi thấy thương cho những nạn nhân
non dại ấy: chẳng có tội tình gì mà phải bị trừng phạt một cách dã man. Tôi
cũng thấy thương cho không biết bao nhiêu trẻ em bên Phi Châu: chỉ vì tội lỗi của loài người nói chung hay của
người dân lục địa đen này nói riêng, mà phải bị “trừng phạt” để mang bệnh
AIDS/HIV, phải mồ côi từ nhỏ và gánh chịu một định mệnh khắc nghiệt và tàn nhẫn!
Với những vị thần hay một Thượng Đế như thế, tôi tuyên xưng mình là một kẻ
“vô thần”. Tôi không tin có một thần linh nào vì tội lỗi của loài người mà bắt
một số người phải gánh chịu một định mệnh khắc nghiệt và tàn nhẫn như trong “bi
kịch Hy Lạp”.
Trong cố gắng sống cho ra người tử tế, tôi biết mình có tự do. Tự do để suy
nghĩ bằng chính cái đầu của mình. Tự do để nói lên điều mình suy nghĩ chớ không
trở thành cái loa của những người đã tước đoạt tự do của tôi. Tự do để sống thật
với con người của mình. Tự do để không những cố gắng vượt qua vô vàn trở ngại
trong cuộc hành trình làm người của mình đã đành, mà còn để chấp nhận trách nhiệm
về các hành động của mình. Tự do để giúp người khác xoay đổi “định mệnh” để họ
có thể có một cuộc sống tự do và tốt đẹp hơn. Đó là một cuộc chiến đấu cam go, nhưng
hùng tráng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét