Chu
Thập
03.11.03
Ngày
đầu tháng 11 hàng năm, theo truyền thống Kitô giáo, tôi thường đến một nghĩa
trang để tưởng nhớ người quá cố. Không có người thân ruột thịt nào của tôi yên
nghỉ ở bất cứ nghĩa trang nào tại Úc Đại Lợi này cả, nhưng tôi vẫn tin tưởng và
cảm nhận được sự hiện diện “như tại”
của họ, như thể họ
đang ở trước mặt tôi, bên cạnh tôi để tôi có thể truyện vãn và hỏi han về bất cứ
chuyện gì. Không riêng gì người thân, mà cả những người xa lạ không quen biết,
cứ hễ đã là người “quá cố” thì đều trở thành thiết thân gần gũi với tôi. Trong
số những “người
dưng nước lã” đã trở thành thân
thiết ấy, năm nay tôi muốn đặc
biệt tưởng nhớ và gặp gỡ một số nhân vật lịch sử.
Trước
hết là cố tổng thống Ngô Đình Diệm, vị nguyên thủ quốc gia đã thành lập nền Đệ
Nhứt Cộng Hòa và đã bị sát hại ngày 1 tháng 11 năm 1963, cách đây đúng 50 năm. Khi tổng thống Ngô Đình
Diệm bị các tướng lãnh đảo chính,
lật đổ và giết chết một cách tàn bạo dã man, tôi đang chuẩn bị thi Trung học đệ
nhứt cấp. Ở tuổi vị thành niên, nhận thức chính trị của tôi còn mù mờ và non nớt. Lúc đó, cùng với
các bạn học “di cư Bắc Kỳ”, tôi đã khóc khi hay tin tổng thống Diệm, người mà từ
lúc có trí khôn tôi đã “suy tôn” khi hát bài “Ai bao năm vì đất nước quên thân
mình…”, bị sát hại. Lúc đó, tôi không biết chính sách cai trị của tổng thống Diệm
có độc tài không, ông có chủ trương bách hại tôn giáo không, chế độ của ông có
phải là gia đình trị không. Óc quan sát và nhận định của tôi chỉ vừa đủ để nhận
thấy rằng sự sụp đổ và cái chết của tổng thống Diệm đã dẫn đến sự phá sập các ấp
chiến lược, mở ngõ cho Việt Cộng ào ạt tràn vào thôn làng và khắp mọi hang cùng
ngõ
hẻm
của đất nước và kéo theo một giai đoạn đầy xáo trộn với sự đổ quân ào ạt của
người Mỹ vào Việt Nam và cuối cũng dẫn đến sự sụp đổ quá nhanh của Miền Nam Việt
Nam. Ngày nay, với sự giải mã của những
tài liệu liên quan đến cuộc chiến tại Việt Nam mà tôi có dịp đọc được, tôi mới
hiểu được rằng cái chết của tổng thống Diệm và ngay cả cái chết của cả Miền Nam
Việt Nam dường như đã được người Mỹ “an bài” và định đoạt cả.
Đó là chuyện lịch sử. Mà nói như Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã là lịch sử thì có
bàn luận hay tuyên bố thế nào đi nữa, cũng chẳng thay đổi được. Trong ngày hôm
nay, khi “gặp” cố tổng thống Diệm để “hỏi chuyện”, tôi tin chắc rằng ông chẳng
phải tự biện minh, trách cứ hay nuôi dưỡng bất cứ một sự thù hận nào nữa. Dù có
đứng ở phía chống đối để chỉ trích hay lên án ông vì những lầm lỗi ông đã sai
phạm trong chính sách cai trị của ông, tôi nghĩ rằng không ai có thể tìm được bất
cứ một tài liệu lịch sử nào cho thấy ông không là một con người thanh liêm,
chính trực và đạo đức. Tôi đã từng ca bài “suy tôn Ngô tổng thống” suốt gần 10
năm trời, nhưng tôi chưa hề tôn ông làm thần tượng. Với tôi, ông là một nhà
lãnh đạo lương thiện và tử tế hiếm thấy trong thời đại nhiễu nhương. Thế giới vẫn
luôn cần những con người như thế. Nếu có một tiếng nói mà tôi có thể nghe được
từ cố tổng thống Ngô Đình Diệm thì tiếng nói đó là một lời mách bảo rằng thế giới
cần những con người lương thiện, tử tế và đạo đức hơn những anh hùng.
Tưởng nhớ cố tổng thống Ngô Đình Diệm trong ngày 1 tháng 11 năm nay, tôi
cũng liên tưởng đến một người mà lịch sử đã cho thấy có dính líu đến cái chết của
tổng thống Diệm cũng như tương lai đen tối của đất nước. Người đó là cố tổng thống
Hoa Kỳ, John F.Kennedy, người cũng đã ra đi trong một cái chết thảm thiết chỉ
sau tổng thống Diệm đúng 21 ngày. Là một người trẻ đang đi tìm cho mình một mẫu
người lý tưởng, tôi cũng đã có lúc say mê hình tượng của ông. Thời đó, người
thanh niên nào mà chẳng thuộc nằm lòng câu nói để đời của ông khi ông ngỏ lời với
thanh niên Mỹ: “Đừng hỏi đất nước phải làm gì cho các bạn, mà hãy tự hỏi các bạn
phải làm gì cho đất nước”.
Nhưng ngày nay, nếu cố tổng thống Kennedy còn sống trong ký ức của tôi thì
hẳn không phải là hình tượng của một chính trị gia trẻ trung, tài ba, có sức
thu hút lạ thường, mà là một con người biết “sám hối”. Sau khi hay tin tổng thống
Ngô Đình Diệm bị thảm sát, nghĩa là chỉ vài tuần lễ trước khi chính mình cũng
trải qua cùng một số phận, tổng thống Kennedy, mặc dù là người đã khai mở chính
sách can thiệp thô bạo vào nội tình Việt Nam, “đã tỏ ra xúc động sâu xa và chưa bao giờ buồn rầu đến như thế kể từ khi
xảy ra vụ (khủng hoảng và đối đầu với Liên xô tại) Cuba năm 1960. Ông nói: “Ông
Diệm đã từng chiến đấu 20 năm trường cho quê hương ông, lẽ nào phải kết liễu
như thế.”(M.Taylor, Swords and Plowshares, trg.301). Điều này đã làm cho tổng
thống John F. Kennedy ray rức rất nhiều về phương diện tôn giáo và luân lý.” (Phạm
văn Lưu, Biến cố chính trị Việt Nam hiện đại, Centre for Vietnamese Studies,
1994, trg 204).
Với tôi, con người thể hiện “tính người” nhiều nhứt khi họ biết hối tiếc, hối
hận hay sám hối. Có lẽ ai vào nghĩa trang cũng đều thấy tự nhiên trào dâng
trong tâm hồn nỗi niềm thương tiếc trước sự ra đi của người quá cố. Nhưng có lẽ
người quá cố cũng sẽ nhắc nhở người còn sống rằng chỉ có một tình cảm đáng trân
quý nhứt đó là sự hối tiếc và niềm hối hận khi mình đã gây thiệt hại, làm tổn
thương người khác và nhứt là xúc phạm đến sự sống của họ. Tôi nghĩ đó là điều
mà có lẽ cố tổng thống Kennedy muốn nói với tôi khi ông nghĩ đến cái chết thảm
thiết của cố tổng thống Ngô Đình Diệm mà một cách gián tiếp ông đã gây ra khi
chính phủ của ông đã “mua chuộc” các tướng lãnh Việt Nam để thực hiện cuộc đảo
chính dẫn đến cái chết của tổng thống Diệm.
Nhìn bức tượng đồng “Thương tiếc”
do thiếu tá điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu thực hiện và được dựng lên tại nghĩa
trang Quân Đội Biên Hòa trước năm 1975 và sau năm 1975, bị bạo quyền Việt Cộng
giật sập và phá hủy, tôi thường nghĩ đến sự hối hận mà con người phải nuôi dưỡng
trong cuộc sống. Bức tượng ấy dĩ nhiên gợi lên niềm tiếc thương đối với những
chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở về tính phi lý của
một cuộc chiến mà do tham vọng hay mù quáng ý thức hệ, những người cộng sản Miền
Bắc đã gây ra. Tiếc thương cho những người đã nằm xuống, dù ở bên nào của cuộc
chiến, và hối hận vì đã gây ra cuộc chiến nồi da xáo thịt: đó là điều mà lẽ ra
bất cứ ai còn có chút lương tri và biết tôn trọng lẽ phải, cũng đều phải có.
Tiếc thay, nhiều người cộng sản Miền Bắc, cho đến lúc chết, vẫn chưa có được
thứ tình cảm bình thường ấy của con người. Trong ngày 1 tháng 11 năm nay, tưởng
nhớ cố tổng thống Ngô Đình Diệm và cố tổng thống John F. Kennedy, tôi cũng
không thể không nghĩ đến “nhất tướng công
thành vạn cốt khô” Võ Nguyên Giáp. Rồi đây, mỗi khi tưởng niệm tổng thống
Ngô Đình Diệm và tổng thống Kennedy, người ta cũng buộc phải liên tưởng đến ông
Võ Nguyên Giáp, vì tên tuổi của ông gắn
liền với cuộc chiến phi lý tàn bạo mà cả hai vị tổng thống kia đều can dự vào. Nhắc
đến cuộc chiến ấy, người ta cũng không thể không nghĩ đến 15 ngàn thanh niên
thiếu nữ Miền Bắc bị ông đem nướng trong lòng chảo Điện Biện Phủ để được ông Hồ
Chí Minh thăng cấp “đại tướng”. Nhắc đến ông người ta không thể không nghĩ đến
4 triệu đồng bào ruột thịt Nam Bắc bị ông mang ra tế sát trên bàn thờ xã hội chủ
nghĩa trong cuộc chiến tương tàn để được mãi mãi mang danh hiệu “đại tướng huyền
thoại”. Nhưng nhắc đến ông, thế giới cũng sẽ mãi mãi không bao giờ quên được
thái độ “không chút mảy may” hối hận
vì đã hy sinh đến hàng triệu triệu đồng bào ruột thịt để chỉ mang lại đau
thương tang tóc và khốn khổ cho cả dân tộc.
Mới đây, sau khi ông Giáp đã nằm xuống, tác giả Stein Tonneson, một học giả
có nhiều nghiên cứu về Việt Nam và hiện đang làm việc tại viện nghiên cứu hòa
bình Oslo và chương trình nghiên cứu hòa bình Đông Á của Đại học Uppsalla, đã
ghi lại hai cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa của cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert
McNamara (1916-2009) với ông Võ Nguyên Giáp. Lần đầu tiên hai cựu thù đã gặp
nhau là năm 1995, sau khi chiến tranh chấm dứt được đúng 20 năm. Cựu bộ trưởng
quốc phòng Mỹ đã có một ấn tượng khá đẹp về Việt Nam khi ông được đón tiếp
không phải như kẻ thù mà như một người bạn. Ông tin tưởng và lạc quan đến độ
nói với các nhà báo: “Tôi thực sự cảm động
khi không hề thấy sự thù hận nào trong ánh mắt của người Việt Nam đối với tôi. Một
Việt Nam thanh bình, dẫu chưa phồn vinh, nhưng quả là đẹp. Một đất nước như thế,
một dân tộc như thế thì họ từng đứng vững trong quá khứ và sẽ tiến lên trong
tương lai là điều không phải tranh cãi”. Với ấn tượng tốt đẹp như thế về
ông Giáp sau lần gặp gỡ đầu tiên vào năm 1995, hai năm sau, trong một dịp đến
Việt Nam dự Hội thảo Việt Mỹ lần đầu tiên, ông McNamara lại bằng mọi giá cố gắng
đến thăm ông Giáp khi chỉ còn vài tiếng đồng hồ trước khi lên máy bay trở về Mỹ.
Nhưng lần này, ông đại tướng huyền thoại của cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên
hình của một tên hiếu sát và khát máu, miệng luôn tuôn ra sự tự mãn và hận thù
(Vài suy nghĩ nhân đọc bài tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Tonneson,
Đàn Chim Việt.Info 26/10/2013). Đây có lẽ cũng chính là giọng điệu mà người được
thế giới nói đến như “đại tướng huyền thoại” và nhiều người trong nước vẫn tôn
là thần tượng đã lập lại với hãng thông tấn AFP trong một cuộc phỏng vấn hồi
năm 2005: ông không một chút mảy may hối hận nào về việc đã hy sinh đến 4 triệu
đồng bào ruột thịt để gọi là đánh cho “Mỹ cút ngụy nhào”, nhưng thực tế là để
tô điểm cho hào quang “đại tướng huyền thoại” của ông.
Cũng như tổng thống Kennedy, trước khi nằm xuống, đã bị dằn vặt ray rứt và
dĩ nhiên hối hận vì đã bật đèn xanh cho cuộc đảo chính dẫn đến cái chết của cố
tổng thống Ngô Đình Diệm, trước khi ra đi, cựu bộ trưởng quốc phòng McNamara có
lẽ cũng nhìn nhận những sai lầm của cá nhân ông và của chính phủ Hoa Kỳ trong
cuộc chiến tại Việt Nam. Nghĩa trang ở đâu cũng luôn được xem là nơi yên nghỉ. Ở
đó chẳng còn tranh chấp hận thù hay ngay cả thứ bậc giai cấp. Dù có nằm trong
lăng tẩm hay bị chôn vùi ở một nơi chẳng còn ai biết đến, tất cả mọi người quá
cố đều bình đẳng với nhau và có lẽ cũng đều chỉ có một thông điệp để nhắn gởi với
người còn sống: hãy sống hòa bình với nhau và hãy biết hối hận vì đã xúc phạm đến
người khác. Giờ này, tôi cũng cố gắng lắng nghe tiếng nói của ông Giáp và tưởng
tượng ra cùng một thông điệp ấy. Còn nếu ông vẫn tiếp tục mang theo xuống mồ
tâm tư thù hận và niềm kiêu hãnh bệnh hoạn vì đã xây dựng đài vinh quang giả
trá của mình trên mạng sống của cả một dân tộc và như thế khó có thể “yên giấc
ngàn thu”, thì tôi cũng xin cầu chúc cho
ông được “yên nghỉ” như mọi người quá cố!
Vào thăm viếng nghĩa trang năm nay, tôi không thể không nhớ đến ông “đại tướng
huyền thoại” và “thần tượng” của nhiều người Việt Nam trong nước. Cuộc sống đơn
sơ, liêm khiết, chính trực và đạo đức của cố tổng thống Ngô Đình Diệm, nỗi niềm
ray rứt của cố tổng thống Kennedy vì đã gây ra cái chết thảm thiết của tổng thống
Diệm, thiện chí hòa giải và xây dựng hòa
bình của cố bộ trưởng quốc phòng Mỹ McNamara...gợi lên cho tôi ý nghĩ: thế giới
cần đến những con người lương thiện, tử tế, biết hối hận hơn là những “huyền
thoại” và “thần tượng” vô cảm.