3.7.15
Lâu nay, nhắc đến cướp biển, người ta chỉ nghĩ đến Somalia, bên Phi Châu.
Trong thực tế, Đông Nam Á mới thực sự là thủ đô của nạn cướp biển. Cùng với những
căng thẳng do hành động “cướp biển” theo đúng nghĩa của Trung Cộng tạo ra, Biển
Đông hiện đang dậy sóng hơn bao giờ hết.
Hôm 11 tháng 6 vừa qua, với súng ống và mã tấu, 8 tên cướp biển đã xông lên
chiếc tàu dầu “Orkim Harmony”. Chuyên chở 6000 tấn dầu hỏa, tàu “Orkim Harmony”
đã rời Hải cảng Kuantan Port, nằm ở duyên hải miền tây Mã Lai và sắp kết thúc hải
trình sau khi đã đi một vòng qua mũi phía nam Mã Lai. 8 tên cướp đã khống chế
được thủy thủ đoàn và xóa bỏ 3 nét chữ trên tên của chiếc tàu “Orkim Harmony” để
biến nó thành “Kim Harmon”. Sau đó, họ ra lệnh cho thuyền trưởng của chiếc tàu
phải trực chỉ hướng Bắc để đi Cam Bốt, với hy vọng tìm được một hải cảng “thân
thiện” để xuống hàng. Nhưng 7 ngày sau đó, chiếc tàu bị phát giác. Những tên hải
tặc đã cảnh cáo các lực lượng tuần duyên rằng họ sẽ giết các con tin. Nhưng sau
đó họ đã chuồn xuống một chiếc ca nô cứu hộ cùng với một vài chiến lợi phẩm mà
họ đã cướp vội được. Toàn bộ thủy thủ đoàn của chiếc “Orkim Harmony” đều an
toàn, ngoại trừ người đầu bếp, vì bị bắn vào đùi cho nên đã được trực thăng vận
về một bệnh viện gần đó.
Cuộc tấn công vào tàu “Orkim Harmony” là một trong những vụ cướp biển mới
nhất xảy ra trong vùng biển Đông Nam Á, là nơi mà eo biển chia cách Tân Gia Ba
và Mã Lai với Nam Dương, lâu nay đã trở thành con đường đi lại của khoảng một
phần ba tàu bè trên thế giới.
Theo Phòng Hàng Hải Quốc Tế (the
International Maritime Bureau), một chi nhánh của Phòng Thương Mại Quốc Tế,
trong năm 2014 đã xảy ra tất cả 15 vụ cướp biển. So với năm trước đó, con số
này không tăng bao nhiêu. Tuy nhiên, chỉ trong 6 tháng vừa qua, lại xảy ra đến
9 vụ. Đây là dấu chỉ đáng lo ngại trong hiện tượng cướp biển. Trong khi, nhờ nỗ
lực chung của cộng đồng thế giới, vùng biển Somalia xem như tạm yên thì Đông
Nam Á lại nổi tiếng như một vùng bị cướp biển hoành hành nhất thế giới hiện
nay.
Cách đây 10 năm, các quốc gia Đông Nam Á xem ra đã thành công trong việc
xua đuổi quân cướp biển, nhờ một phần vào các cuộc tuần tra trong eo biển
Malacca ở ngoài khơi Tây Nam của Mã Lai. Nhưng cũng kể từ đó, dân cướp biển lại
di chuyển hoạt động xuống phía Đông. Những vụ cướp biển mới đây đã xảy ra gần bờ
biển Tân Gia Ba. Đây là một vùng biển nhộn nhịp giúp cho bọn cướp biển có thể
trú ẩn mà không sợ bị phát giác. Ngoài ra, chúng cũng ẩn nấp ở mạn Tây Nam Biển
Đông.
Khác với bọn cướp biển Somali, vốn nhắm đến việc bắt cóc thủy thủ đoàn và
ngay cả giam giữ tàu để đòi tiền chuộc, những tên hải tặc Đông Nam Á chỉ hy vọng
đánh cắp dầu hỏa, dầu dừa và các chất hóa học từ những chiếc tàu nhỏ, có tốc độ
chậm. Chúng luôn trả lại tàu và phóng thích thủy thủ đoàn sau khi đã hoàn tất vụ
đánh cướp. Một nguy hiểm khác cũng thường xảy ra ở Đông Nam Á là các băng cướp
chỉ lên tàu để cướp tiền mặt, phụ tùng máy móc và máy vi tính.
Hiện nay những vụ cướp này chỉ ảnh hưởng đến khoảng trên dưới 120 tàu bè
qua lại mỗi năm gần eo biển Malacca. Dạo tháng 12 năm vừa qua, một thủy thủ Việt
Nam đã bị bắn vào đầu trong một cuộc đụng độ với bọn cướp. Đây là một trong 3 nạn
nhân người Đông Nam Á đã bị cướp biển sát hại trong năm 2014. Ông Philip
Belcher, thuộc hiệp hội chủ tàu dầu có tên là “Intertanko” cho biết: ngay cả những
tên cướp cạn cũng có thể gây nguy hiểm chết người khi chúng khống chế một chiếc
tàu. Điều đáng lo ngại nhất cho các chủ tàu hiện nay là các hãng bảo hiểm sẽ
gia tăng tiền bảo hiểm cho tàu bè đi lại trên eo biển Malacca.
Các chủ tàu thường than phiền rằng các chính phủ trong vùng đã giảm các hoạt
động tuần duyên. Các chính phủ Nam Dương, Tân Gia Ba và Mã Lai cho biết họ đang
thảo luận về vấn đề này. Nhưng tình hình cẳng thẳng hiện nay do việc hung hăng
lấn chiếm Biển Đông tạo ra khiến cho việc đi lại của bất cứ tàu bè nào cũng đều
có thể gặp khó khăn. Lời qua tiếng lại giữa ba nước này cũng đã cản trở việc
truy lùng bọn cướp biển, vì nước nào cũng tìm cách ngăn cản không cho các lực
lượng tuần duyên của nước khác săn đuổi các hải tặc đang lẩn trốn trong vùng biển của mình. Ngay cả việc chia sẻ
thông tin cũng gặp khó khăn: Mã Lai và Nam Dương không chịu gia nhập vào tổ chức
chung có tên là ReCAAP nhằm phối hợp cách đối phó của các chính phủ chống lại nạn
cướp biển.
Nam Dương là nước tỏ thái độ thiếu hợp tác nhất. Nam Dương vốn nghèo hơn
hai nước láng giềng nếu tính theo thu nhập đầu người và các tàu tuần duyên của
nước này lại cũ kỹ đòi hỏi quá nhiều tốn kém để bảo trì và hoạt động. Nam
Dương lại có quá nhiều đảo, khiến việc truy lùng cướp biển không được dễ dàng.
Các hải cảng không được trang bị và canh phòng đầy đủ của nước này cũng dễ dàng
trở thành hang trú ẩn cho trộm cướp. Hơn nữa, Nam Dương cũng chẳng xem việc bảo
đảm an ninh cho tàu bè của mình là một ưu tiên.
Tuy nhiên, trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề cướp biển không chỉ thuộc
về các nước trong vùng. Các chủ tàu và thuyền trưởng cũng phải chịu một phần
trách nhiệm.
Các tên hải tặc Somali đã phải khựng lại khi các chủ tàu
chịu chi một ít tiền để trang bị vệ binh và vũ khí cho tàu của mình. Những tên
hải tặc Đông Nam Á sẽ bỏ chạy nếu bị các vệ binh có vũ trang và thủy thủ đoàn
phát giác. Các công ty hàng hải thường không chịu báo cáo về những vụ tấn công
của cướp biển. Họ làm thế để tránh cho thân chủ của họ cũng như các hãng bảo hiểm
khỏi lo ngại. Ngoài ra, cũng có nguồn tin cho rằng các thủy thủ đoàn, vì được trả lương thấp, cũng đồng lõa với các hải
tặc trong một số vụ cướp.
Dĩ nhiên giải pháp lâu bền nhất, nhưng lại ít được mang ra thảo luận nhất, chính
là phải giải quyết những vấn đề kinh tế và xã hội vốn là nguyên nhân làm phát
sinh và khuyến khích nạn cướp biển. Trong quá khứ, một số chính phủ trong vùng
đã tìm cách giải quyết các cuộc xung đột. Chẳng hạn năm 2005, Chính phủ Nam Dương và các phiến quân tại tỉnh Aceh, Tây Bắc
nước này, đã ký một hòa ước. Hòa ước này đã giúp xoa dịu được một số vấn đề do
nạn cướp biển tạo ra. Ngày nay, nhiều tên cướp biển Nam Dương được cho là xuất
phát từ những thành phố cảng nghèo của nước này. Đây là những nơi mà nạn đánh
cá bừa bãi, bất hợp pháp cũng như những hủy hoại về môi sinh đã khiến cho việc
kiếm sống lương thiện và bình thường của người dân trở nên khó khăn. Một số đã
từng là hải tặc trước đây đã quay về việc buôn bán, vì không thể kiếm sống bằng
nghề cướp bóc nữa.
Tổng thống Joko Widodo của Nam Dương đã hứa sẽ đẩy mạnh kinh tế hàng hải của
đất nước. Đây là một chương trình đầy triển vọng, mặc dù sự tiến bộ chắc chắn sẽ
rất chậm. Trong khi đó, theo ông Pottengal Mukundan, thuộc Phòng Hàng Hải Quốc
Tế, gần đây đã có nhiều vụ bắt giữ những tên đầu sỏ của các tổ chức cướp biển.
Đây là một bước đầy triển vọng trong việc chận đứng nạn cướp biển tại Đông Nam
Á. Trong số những tên cướp bị bắt giữ, người ta thấy có những người đã từng
đánh cướp chiếc tàu dầu “Orkim Harmony”. Đây là công trạng của các thủy thủ tuần
duyên của Việt Nam. Họ đã giả làm những người sống sót từ một chiếc thuyền bị đắm
cho nên mới có thể đến gần tàu “Orkim Harmony” và giải cứu được thủy thủ đoàn của
tàu này.
Mặc dù cũng có một vài tiến bộ trong việc tẩy trừ nạn cướp biển tại Đông
Nam Á, nhưng ông Belcher, thuộc hiệp hội tàu dầu “Intertanko” cho rằng các chủ
tàu vẫn còn tỏ ra rất bi quan.
Bi quan một phần vì nền kinh tế hiện nay của Nam Dương. Sự phát triển kinh
tế của nước này hiện đang chậm lại. Là một thành viên của câu lạc bộ 20 quốc
gia có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, kinh tế của Nam Dương tùy thuộc nhiều
vào các thương phẩm. Nước này đứng đầu thế giới về việc xuất cảng dầu dừa và
thiếc, đứng hàng thứ hai về cao su và hàng thứ tư về than đá. Mỏ vàng Grasberg
tại Papua được xem là mỏ vàng lớn nhất thế giới. Ngoài ra tại đây cũng có mỏ đồng lớn thứ 3 trên thế giới.
Cũng như Úc Đại Lợi, kể từ khi “cơn đói” thương phẩm của Trung Quốc gia tăng và
giá thương phẩm lên cao, nền kinh tế của Nam Dương lên vùn vụt. Nhưng kể từ năm
2011, mức tăng trưởng kinh tế của Nam Dương khựng lại, vì nhu cầu nguyên liệu của
Trung Quốc cũng như giá thương phẩm hạ giảm.
Tổng thống Jokowi đã kịp thời chuyển hướng nền kinh tế của Nam Dương từ việc
xuất cảng thương phẩm sang chế xuất. Tuy nhiên công cuộc đổi mới này lại gặp phải
một trở ngại cố hữu của Nam Dương là tệ nạn bàn giấy và hạ tầng cơ cấu tồi tệ
thừa hưởng từ thời Tổng thống Suharto. Hầu hết tiền đầu tư vào việc cải tiến
hạ tầng cơ sở lại chảy vào các công ty “quốc doanh” vốn lúc nào cũng làm ăn lỗ
lã. Đó là chưa kể đến những luật về thương mại cứng nhắc của Nam Dương. So với
tại Thái Lan và Mã Lai, các công ty đầu tư vào Nam Dương phải tốn thêm đến 50
phần trăm cho các thủ tục bàn giấy và hạ tầng cơ sở. Chính vì vậy mà trong những
năm gần đây, đầu tư ngoại quốc vào Nam Dương đã giảm hẳn.
Thêm vào đó, địa lý của Nam Dương cũng là một cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế. Nước này có đến hơn 13 ngàn đảo. Điều
đó có nghĩa là việc di chuyển hàng hóa bằng đường thủy từ chỗ này đến chỗ khác
luôn phức tạp và tốn kém hơn so với việc được di
chuyển bằng xe tải. Vào thời mà nhu cầu thương phẩm lên cao trên toàn thế giới,
bằng mọi giá các công ty vẫn có thể lặn lội khắp nơi và sẵn sàng chịu tốn kém để
săn tìm thương phẩm. Nhưng nay, tình trạng hầu như đã đảo lộn. Một nền kinh tế
chỉ dựa vào việc “đào đất bán mà ăn” không còn mang lại thịnh vượng cho xứ sở nữa.
Nếu những cải cách kinh tế của Tổng thống Jokowi
không hữu hiệu vì nạn bàn giấy rườm rà và tình trạng hạ tầng cơ sở yếu kém, thì
triển vọng phát triển của Nam Dương vẫn còn xa vời. Và như người Việt Nam vẫn
thường nói “bần cùng sinh đạo tặc”, tình trạng nghèo đói dễ đưa đẩy người dân
vào chuyện cướp bóc. “Làm ăn” trên bờ không dễ cho nên chỉ còn một đường là làm
hải tặc.
Đây chính là lý do khiến giới chủ nhân của những chiếc tàu dầu qua lại trên
eo biển Malacca nới liền 3 nước Nam Dương, Tân Gia Ba và Mã Lai, tỏ ra bi quan
về cuộc chiến chống hải tặc hiện nay tại Đông Nam Á.
(theo báo The Economist)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét