Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Nạn cướp biển ở Đông Nam Á



3.7.15
Lâu nay, nhắc đến cướp biển, người ta chỉ nghĩ đến Somalia, bên Phi Châu. Trong thực tế, Đông Nam Á mới thực sự là thủ đô của nạn cướp biển. Cùng với những căng thẳng do hành động “cướp biển” theo đúng nghĩa của Trung Cộng tạo ra, Biển Đông hiện đang dậy sóng hơn bao giờ hết.
Hôm 11 tháng 6 vừa qua, với súng ống và mã tấu, 8 tên cướp biển đã xông lên chiếc tàu dầu “Orkim Harmony”. Chuyên chở 6000 tấn dầu hỏa, tàu “Orkim Harmony” đã rời Hải cảng Kuantan Port, nằm ở  duyên hải miền tây Mã Lai và sắp kết thúc hải trình sau khi đã đi một vòng qua mũi phía nam Mã Lai. 8 tên cướp đã khống chế được thủy thủ đoàn và xóa bỏ 3 nét chữ trên tên của chiếc tàu “Orkim Harmony” để biến nó thành “Kim Harmon”. Sau đó, họ ra lệnh cho thuyền trưởng của chiếc tàu phải trực chỉ hướng Bắc để đi Cam Bốt, với hy vọng tìm được một hải cảng “thân thiện” để xuống hàng. Nhưng 7 ngày sau đó, chiếc tàu bị phát giác. Những tên hải tặc đã cảnh cáo các lực lượng tuần duyên rằng họ sẽ giết các con tin. Nhưng sau đó họ đã chuồn xuống một chiếc ca nô cứu hộ cùng với một vài chiến lợi phẩm mà họ đã cướp vội được. Toàn bộ thủy thủ đoàn của chiếc “Orkim Harmony” đều an toàn, ngoại trừ người đầu bếp, vì bị bắn vào đùi cho nên đã được trực thăng vận về một bệnh viện gần đó.
Cuộc tấn công vào tàu “Orkim Harmony” là một trong những vụ cướp biển mới nhất xảy ra trong vùng biển Đông Nam Á, là nơi mà eo biển chia cách Tân Gia Ba và Mã Lai với Nam Dương, lâu nay đã trở thành con đường đi lại của khoảng một phần ba tàu bè trên thế giới.
Theo Phòng Hàng Hải Quốc Tế (the International Maritime Bureau), một chi nhánh của Phòng Thương Mại Quốc Tế, trong năm 2014 đã xảy ra tất cả 15 vụ cướp biển. So với năm trước đó, con số này không tăng bao nhiêu. Tuy nhiên, chỉ trong 6 tháng vừa qua, lại xảy ra đến 9 vụ. Đây là dấu chỉ đáng lo ngại trong hiện tượng cướp biển. Trong khi, nhờ nỗ lực chung của cộng đồng thế giới, vùng biển Somalia xem như tạm yên thì Đông Nam Á lại nổi tiếng như một vùng bị cướp biển hoành hành nhất thế giới hiện nay.
Cách đây 10 năm, các quốc gia Đông Nam Á xem ra đã thành công trong việc xua đuổi quân cướp biển, nhờ một phần vào các cuộc tuần tra trong eo biển Malacca ở ngoài khơi Tây Nam của Mã Lai. Nhưng cũng kể từ đó, dân cướp biển lại di chuyển hoạt động xuống phía Đông. Những vụ cướp biển mới đây đã xảy ra gần bờ biển Tân Gia Ba. Đây là một vùng biển nhộn nhịp giúp cho bọn cướp biển có thể trú ẩn mà không sợ bị phát giác. Ngoài ra, chúng cũng ẩn nấp ở mạn Tây Nam Biển Đông.
Khác với bọn cướp biển Somali, vốn nhắm đến việc bắt cóc thủy thủ đoàn và ngay cả giam giữ tàu để đòi tiền chuộc, những tên hải tặc Đông Nam Á chỉ hy vọng đánh cắp dầu hỏa, dầu dừa và các chất hóa học từ những chiếc tàu nhỏ, có tốc độ chậm. Chúng luôn trả lại tàu và phóng thích thủy thủ đoàn sau khi đã hoàn tất vụ đánh cướp. Một nguy hiểm khác cũng thường xảy ra ở Đông Nam Á là các băng cướp chỉ lên tàu để cướp tiền mặt, phụ tùng máy móc và máy vi tính.
Hiện nay những vụ cướp này chỉ ảnh hưởng đến khoảng trên dưới 120 tàu bè qua lại mỗi năm gần eo biển Malacca. Dạo tháng 12 năm vừa qua, một thủy thủ Việt Nam đã bị bắn vào đầu trong một cuộc đụng độ với bọn cướp. Đây là một trong 3 nạn nhân người Đông Nam Á đã bị cướp biển sát hại trong năm 2014. Ông Philip Belcher, thuộc hiệp hội chủ tàu dầu có tên là “Intertanko” cho biết: ngay cả những tên cướp cạn cũng có thể gây nguy hiểm chết người khi chúng khống chế một chiếc tàu. Điều đáng lo ngại nhất cho các chủ tàu hiện nay là các hãng bảo hiểm sẽ gia tăng tiền bảo hiểm cho tàu bè đi lại trên eo biển Malacca.
Các chủ tàu thường than phiền rằng các chính phủ trong vùng đã giảm các hoạt động tuần duyên. Các chính phủ Nam Dương, Tân Gia Ba và Mã Lai cho biết họ đang thảo luận về vấn đề này. Nhưng tình hình cẳng thẳng hiện nay do việc hung hăng lấn chiếm Biển Đông tạo ra khiến cho việc đi lại của bất cứ tàu bè nào cũng đều có thể gặp khó khăn. Lời qua tiếng lại giữa ba nước này cũng đã cản trở việc truy lùng bọn cướp biển, vì nước nào cũng tìm cách ngăn cản không cho các lực lượng tuần duyên của nước khác săn đuổi các hải tặc đang ln trốn trong vùng biển của mình. Ngay cả việc chia sẻ thông tin cũng gặp khó khăn: Mã Lai và Nam Dương không chịu gia nhập vào tổ chức chung có tên là ReCAAP nhằm phối hợp cách đối phó của các chính phủ chống lại nạn cướp biển.
Nam Dương là nước tỏ thái độ thiếu hợp tác nhất. Nam Dương vốn nghèo hơn hai nước láng giềng nếu tính theo thu nhập đầu người và các tàu tuần duyên của nước này lại cũ k đòi hỏi quá nhiều tốn kém để bảo trì và hoạt động. Nam Dương lại có quá nhiều đảo, khiến việc truy lùng cướp biển không được dễ dàng. Các hải cảng không được trang bị và canh phòng đầy đủ của nước này cũng dễ dàng trở thành hang trú ẩn cho trộm cướp. Hơn nữa, Nam Dương cũng chẳng xem việc bảo đảm an ninh cho tàu bè của mình là một ưu tiên.
Tuy nhiên, trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề cướp biển không chỉ thuộc về các nước trong vùng. Các chủ tàu và thuyền trưởng cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Các tên hải tặc Somali đã phải khựng lại khi các chủ tàu chịu chi một ít tiền để trang bị vệ binh và vũ khí cho tàu của mình. Những tên hải tặc Đông Nam Á sẽ bỏ chạy nếu bị các vệ binh có vũ trang và thủy thủ đoàn phát giác. Các công ty hàng hải thường không chịu báo cáo về những vụ tấn công của cướp biển. Họ làm thế để tránh cho thân chủ của họ cũng như các hãng bảo hiểm khỏi lo ngại. Ngoài ra, cũng có nguồn tin cho rằng các thủy thủ đoàn, vì  được trả lương thấp, cũng đồng lõa với các hải tặc trong một số vụ cướp.
Dĩ nhiên giải pháp lâu bền nhất, nhưng lại ít được mang ra thảo luận nhất, chính là phải giải quyết những vấn đề kinh tế và xã hội vốn là nguyên nhân làm phát sinh và khuyến khích nạn cướp biển. Trong quá khứ, một số chính phủ trong vùng đã tìm cách giải quyết các cuộc xung đột. Chẳng hạn năm 2005, Chính phủ Nam Dương và các phiến quân tại tỉnh Aceh, Tây Bắc nước này, đã ký một hòa ước. Hòa ước này đã giúp xoa dịu được một số vấn đề do nạn cướp biển tạo ra. Ngày nay, nhiều tên cướp biển Nam Dương được cho là xuất phát từ những thành phố cảng nghèo của nước này. Đây là những nơi mà nạn đánh cá bừa bãi, bất hợp pháp cũng như những hủy hoại về môi sinh đã khiến cho việc kiếm sống lương thiện và bình thường của người dân trở nên khó khăn. Một số đã từng là hải tặc trước đây đã quay về việc buôn bán, vì không thể kiếm sống bằng nghề cướp bóc nữa.
Tổng thống Joko Widodo của Nam Dương đã hứa sẽ đẩy mạnh kinh tế hàng hải của đất nước. Đây là một chương trình đầy triển vọng, mặc dù sự tiến bộ chắc chắn sẽ rất chậm. Trong khi đó, theo ông Pottengal Mukundan, thuộc Phòng Hàng Hải Quốc Tế, gần đây đã có nhiều vụ bắt giữ những tên đầu sỏ của các tổ chức cướp biển. Đây là một bước đầy triển vọng trong việc chận đứng nạn cướp biển tại Đông Nam Á. Trong số những tên cướp bị bắt giữ, người ta thấy có những người đã từng đánh cướp chiếc tàu dầu “Orkim Harmony”. Đây là công trạng của các thủy thủ tuần duyên của Việt Nam. Họ đã giả làm những người sống sót từ một chiếc thuyền bị đắm cho nên mới có thể đến gần tàu “Orkim Harmony” và giải cứu được thủy thủ đoàn của tàu này.
Mặc dù cũng có một vài tiến bộ trong việc tẩy trừ nạn cướp biển tại Đông Nam Á, nhưng ông Belcher, thuộc hiệp hội tàu dầu “Intertanko” cho rằng các chủ tàu vẫn còn tỏ ra rất bi quan.
Bi quan một phần vì nền kinh tế hiện nay của Nam Dương. Sự phát triển kinh tế của nước này hiện đang chậm lại. Là một thành viên của câu lạc bộ 20 quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, kinh tế của Nam Dương tùy thuộc nhiều vào các thương phẩm. Nước này đứng đầu thế giới về việc xuất cảng dầu dừa và thiếc, đứng hàng thứ hai về cao su và hàng thứ tư về than đá. Mỏ vàng Grasberg tại Papua được xem là mỏ vàng lớn nhất thế giới. Ngoài ra tại đây cũng có mỏ đồng lớn thứ 3 trên thế giới. Cũng như Úc Đại Lợi, kể từ khi “cơn đói” thương phẩm của Trung Quốc gia tăng và giá thương phẩm lên cao, nền kinh tế của Nam Dương lên vùn vụt. Nhưng kể từ năm 2011, mức tăng trưởng kinh tế của Nam Dương khựng lại, vì nhu cầu nguyên liệu của Trung Quốc cũng như giá thương phẩm hạ giảm.
Tổng thống Jokowi đã kịp thời chuyển hướng nền kinh tế của Nam Dương từ việc xuất cảng thương phẩm sang chế xuất. Tuy nhiên công cuộc đổi mới này lại gặp phải một trở ngại cố hữu của Nam Dương là tệ nạn bàn giấy và hạ tầng cơ cấu tồi tệ thừa hưởng từ thời Tổng thống Suharto. Hầu hết tiền đầu tư vào việc cải tiến hạ tầng cơ sở lại chảy vào các công ty “quốc doanh” vốn lúc nào cũng làm ăn lỗ lã. Đó là chưa kể đến những luật về thương mại cứng nhắc của Nam Dương. So với tại Thái Lan và Mã Lai, các công ty đầu tư vào Nam Dương phải tốn thêm đến 50 phần trăm cho các thủ tục bàn giấy và hạ tầng cơ sở. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây, đầu tư ngoại quốc vào Nam Dương đã giảm hẳn.
Thêm vào đó, địa lý của Nam Dương cũng là một cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế. Nước này có đến hơn 13 ngàn đảo. Điều đó có nghĩa là việc di chuyển hàng hóa bằng đường thủy từ chỗ này đến chỗ khác luôn phức tạp và tốn kém hơn so với việc được di chuyển bằng xe tải. Vào thời mà nhu cầu thương phẩm lên cao trên toàn thế giới, bằng mọi giá các công ty vẫn có thể lặn lội khắp nơi và sẵn sàng chịu tốn kém để săn tìm thương phẩm. Nhưng nay, tình trạng hầu như đã đảo lộn. Một nền kinh tế chỉ dựa vào việc “đào đất bán mà ăn” không còn mang lại thịnh vượng cho xứ sở nữa. Nếu những cải cách kinh tế của Tổng thống Jokowi không hữu hiệu vì nạn bàn giấy rườm rà và tình trạng hạ tầng cơ sở yếu kém, thì triển vọng phát triển của Nam Dương vẫn còn xa vời. Và như người Việt Nam vẫn thường nói “bần cùng sinh đạo tặc”, tình trạng nghèo đói dễ đưa đẩy người dân vào chuyện cướp bóc. “Làm ăn” trên bờ không dễ cho nên chỉ còn một đường là làm hải tặc.
Đây chính là lý do khiến giới chủ nhân của những chiếc tàu dầu qua lại trên eo biển Malacca nới liền 3 nước Nam Dương, Tân Gia Ba và Mã Lai, tỏ ra bi quan về cuộc chiến chống hải tặc hiện nay tại Đông Nam Á.
(theo báo The Economist)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét