Chu Thập
1.11.11
Tuần qua, Quỹ Dân Số Thế Giới của Liên
hiệp quốc đã cho công bố bản phúc trình về tình trạng Dân số thế giới trong năm
2011. Ở một nơi nào đó, có thể là Phi luật tân hay Ấn độ, vào lúc không giờ
sáng thứ Hai 31 tháng 10 vừa qua, người
thứ bảy tỷ trên thế giới đã chào đời. Trong năm nay, thế giới sẽ có thêm 135
triệu người xuất hiện trên trái đất và 57 triệu người trở về với cát bụi. Như vậy,
lấy số sinh trừ cho số tử, dân số thế giới sẽ tăng thêm 78 triệu người.
Tôi vốn không thích những con số. Lúc
còn học trung học, tuy không phải là một học sinh được xếp vào hạng dở toán,
nhưng tôi lại thích “con chữ” hơn là “con số”. Học lịch sử, tôi thích những câu
chuyện, nhưng lại ghét những niên biểu cần phải ghi nhớ. Học địa lý, tôi thích
phong cảnh, văn hóa, con người hơn là những số liệu về dân số hay sản xuất kinh
tế. Ngày nay, mỗi lần đi chợ, phải nhớ giá cả các mặt hàng ở các tiệm buôn hay
trung tâm bán lẻ để so sánh và cân đo trước khi mua, tôi lại thấy nhức đầu. Nói
gì đến những con số phải nhớ và viết xuống khi khai thuế. Còn với những con số
như sổ ngân hàng, số điện thoại...bộ nhớ của tôi có cố gắng cách mấy cũng vô
ích.
Với tôi, những con số thường vô cảm và
không hồn. Nạn nhân của chiến tranh, của các chế độ độc tài, của thiên tai được
tính bằng những con số. Những người đi tham dự một biến cố như biểu tình, biểu
dương lực lượng, biểu dương tôn giáo cũng được đếm bằng con số; số người tham
gia càng đông thì biến cố càng quan trọng, buổi lễ càng hoành tráng, lòng mộ mến
đối với nhân vật được đón tiếp càng lớn, tổ chức càng có uy tín, tôn giáo càng
mạnh...Chính vì vô cảm và không hồn mà con số cũng gia tăng sự tàn ác của con
người: trong nhà tù hay trong trại tập tập trung chẳng hạn, tù nhân bị tước đoạt
tên tuổi và phẩm giá để chỉ còn là một con số!
Dân số thế giới là một con số để các
chuyên gia làm các phép tính cộng trừ nhân chia. Nhìn theo kinh tế thị trường,
dân số chỉ còn là một thị trường để phân tách lợi hại. Thế giới Tây phương đã
chẳng từng nhìn vào Trung quốc như một thị trường béo bở đó sao? Một tỷ người,
mỗi người chỉ cần một viên Aspirin thì đủ thấy cái mối lợi to lớn biết chừng
nào! Nhìn về điều được gọi là “Thế kỷ Á châu”, Úc đại lợi cũng chỉ xem các nước
đang có triển vọng phát triển kinh tế nhanh chóng tại Á châu như một thị trường
mà thôi. Mà đã là thị trường thì dĩ nhiên, càng nhiều người tiêu thụ thì càng
bán được nhiều hàng hóa. Dân số như vậy thiết yếu cũng là một thị trường.
Nhưng cái nhìn thị trường đầy lạc quan
đó cũng không đánh đổ được mối lo ngại của nhiều nhà dân số học về nạn nhân
mãn. Người ta lại nại đến chủ thuyết của ông thày dòng Malthus bên Anh vào thế
kỷ 16 để kêu gọi hạn chế sinh sản, bởi vì dân số gia tăng theo cấp số nhân
trong khi thực phẩm lại gia tăng theo cấp số cộng. Nhiều người đã ca ngợi Trung
quốc, quốc gia đầu tiên trên thế giới đã có dân số lên đến một tỷ người vào năm
1980, vì đã thành công trong việc hạn chế dân số bằng chính sách mỗi gia đình
chỉ được phép có một đứa con. Ngày nay, có lẽ dân số trên một tỷ người của quốc
gia cộng sản này đã có đủ ăn, đủ mặc và ngay cả giàu có hơn nhiều nước khác, nhưng vì chính sách mỗi gia đình một đứa con ấy,
trên 30 triệu thanh niên đành phải lâm
vào tình trạng “ế vợ” cho nên phải vượt biên giới qua Việt nam hay đi mãi sang tận các
nước Phi châu nghèo để “mua vợ”.Thời buổi này, không có cái cảnh “Vợ nhặt” như nhà văn Kim Lân đã mô tả về
cơn đói năm Ất dậu 1945 ở Miền Bắc Việt nam, nhưng việc người Tàu, người Đài
Loan, người Đại hàn...bỏ tiền ra đi mua vợ Việt nam là chuyện đang xảy ra như
cơm bữa ở cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Trong chuyến về thăm quê hương vừa qua,
đi đâu tôi cũng thấy có khẩu hiệu với nội dung “dù gái hay trai, chỉ hai là đủ” mà thôi. Rồi đây, với chính sách
này và với tình trạng trọng nam khinh nữ, không biết con trai Việt nam sẽ đi nước
nào để tìm vợ hay mua vợ.
Trong khi ở những nước đông dân, mỗi người
dân là một gánh nặng cho guồng máy kinh tế và xã hội nên các chính phủ tìm cách
hạn chế và kiểm soát sinh sản, thì tại những nước ít dân hay dân số già nua,
người ta lại khuyến khích sinh sản, bởi vì người dân được xem như một thứ “vốn
quý” cần thiết cho phát triển kinh tế và xã hội.
Nhưng dù có được xem là vốn quý cần gia
tăng hay như một gánh nặng cần hạn chế, thì dân số hay đúng hơn mỗi một người
trong xã hội vẫn là một con số, một thứ “vật chất” (vốn/gánh nặng) để tính toán
trong bài toán kinh tế và xã hội. Trong cái nhìn nào thì con người dường như
cũng chỉ là một con ốc trong một guồng máy. Guồng máy chạy đều thì con ốc còn
lành lặn, guồng máy gặp trục trặc thì con ốc có thể bị nghiền nát. Người ta thường
so sánh chế độ cộng sản với một “cỗ máy nghiền” là thế.
Dân số thế giới đã được bảy tỷ người.
Tôi là một trong số bảy tỷ người này. Là một hữu thể có nhân vị và một phẩm giá
độc nhứt vô nhị, chẳng giống bất cứ một người nào trong số bảy tỷ người này,
tôi cương quyết không chấp nhận chỉ là một con số.
Tôi là con thứ 10 trong một gia đình 12
người con. Thế hệ “babyboomer” của tôi thường thuộc những gia đình đông con.
Tôi vẫn không ngừng cám ơn cha mẹ vì đã không biết đến nạn nhân mãn, kế hoạch
hóa gia đình, các phương tiện ngừa thai hay phá thai mà tôi mới có thể góp mặt
với đời. Tôi cũng cám ơn anh chị em trong nhà mỗi người đã phải ăn bớt một chút
để tôi cũng có phần. Cha mẹ tôi là những người thất học và chất phác. Nhưng tôi
tin rằng cũng như mọi đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ, tôi đã mang lại tiếng cười, niềm
vui và hy vọng cho cha mẹ tôi và người xung quanh. Có lẽ tôi chưa làm được “trò
trống” gì trên thế giới này. Nhưng sự xuất hiện của tôi trên cõi đời này đã
mang lại thêm một lý do để hy vọng ít nhứt là cho cha mẹ, gia đình và người
thân của tôi.
Tôi thích cái tựa đề của bài báo có đính
kèm hình của một thơ nhi mới chào đời “Lại
có thêm một trong 7 tỷ lý do để lạc quan”, trên báo The Sydney Morning
Herald số ra cuối tuần qua. Đọc tựa đề bài báo, tôi thấy phấn khởi vì sự có mặt
của tôi cũng như của bất cứ đứa trẻ nào trên trái đất này. Tôi không phải là một
con số, nhứt là một số không. Tôi là một con người có thể mang lại niềm hy vọng
cho người khác! Nghĩ như thế mà thấy vui và hãnh diện trong ngày dân số trái đất
đã vượt qua ngưỡng cửa 7 tỷ người.
Năm 1995, danh ca Michael Jackson đã cho
trình làng Album có tựa đề “HIStory”.
Album này đã được đề cử là “Album của năm” cho giải Grammy. Tôi không phải là một
“fan” của danh ca kích động nhạc này. Nhưng tựa đề của Album không thể không
khiến tôi suy nghĩ. Đây chỉ là câu chuyện đời tư (his story) của một nghệ
sĩ tài ba, nhưng lại có tham vọng trở thành “lịch sử” (History). Thực tế những
sáng tác và tài nghệ của Michael Jackson đã không chỉ đi vào lịch sử thế giới,
mà còn làm nên lịch sử thế giới. Tôi nghĩ một cách tự hào rằng không riêng những
nhân vật lịch sử, mà cuộc đời của mỗi người có mặt trên thế giới này cũng đều
là một phần của lịch sử thế giới.
Về điểm này, tôi thích cách quảng cáo của
Đài SBS. Thỉnh thoảng, đài này cho chiếu lên câu “Six billions stories and counting...” (6 tỷ câu chuyện và còn đang
tính thêm...) và kèm theo một chú thích bằng nhiều thứ tiếng, có khi bằng tiếng
Việt nam như “đây là câu chuyện về gia
đình tôi...” Con số của những câu chuyện nay hẳn đã vượt qua con số bảy tỷ.
Lịch sử của thế giới chúng ta được viết
lên không chỉ bằng những biến cố lớn, những nhân vật danh tiếng hay những tin tức
giựt gân được truyền đi trên các phương tiện truyền thông mỗi ngày, mà được cấu
thành bởi 7 tỷ câu chuyện khác nhau. Mỗi người có mặt trên trái đất này đều có
một lịch sử riêng và một câu chuyện riêng để kể. Có những câu chuyện được tự kể.
Có những câu chuyện được người khác kể lại. Nhưng dù được kể lại hay âm thầm
chôn chặt trong nội tâm sâu kín của cõi lòng, mỗi câu chuyện đều là một lịch sử
độc nhứt vô nhị không bao giờ lập lại.
Bảy tỷ người có mặt trên trái đất là 7 tỷ
câu chuyện khác nhau, bởi vì mỗi người là một thế giới riêng tư cần được tôn trọng,
chiêm ngưỡng và nhứt là cảm thông. Thế giới có chiến tranh một phần có lẽ vì thiếu
sự tôn trọng đối với cái thế giới huyền nhiệm riêng tư ấy.
Ngày dân số thế giới được bảy tỷ người,
trong nhiều ý nghĩ vụn vặt, tôi thấy rằng khoan nhượng và cảm thông là thái độ
quan trọng nhứt trong cuộc sống. Tôi cứ suy nghĩ về câu chuyện được ai đó sưu tầm
và gởi đăng trên Việt luận số ra ngày thứ ba 25 tháng 10 vừa qua: một người đàn
bà sống trong một chung cư hay bị quấy rầy vì tiếng đóng cửa mạnh của một cậu
bé ở lầu trên. Nhưng cứ mỗi lần gặp người đàn bà, cậu bé đều xuýt xoa xin lỗi.
Ngày nọ, tiếng dập cửa không còn nữa. Gặp lại người đàn bà, cậu bé mới giải
thích rằng cậu không còn đóng sầm cánh cửa để tạo ra âm thanh nữa, vì mẹ cậu đã
qua đời. Cậu nói rằng trong suốt thời gian nằm liệt giường, mẹ cậu cần nghe có
tiếng đóng cửa mạnh để được an tâm là có người đang ở bên cạnh mình. Lời giải
thích của cậu bé đã xóa tan mọi nghi ngờ và thành kiến nơi người đàn bà.
Kinh nghiệm bản thân thường cho tôi thấy
rằng thành kiến và thái độ thiếu cảm thông dễ làm cho tôi bị co cụm và đóng kín
trong bản thân để khước từ mọi giao cảm với người khác.
Trong đoản văn có tựa đề “Sư tử không ăn cỏ” được đăng trong tuyển
tập “Yêu người ngóng núi” mà tôi đã
mua trong chuyến đi Việt nam vừa qua, tác giả Nguyễn ngọc Tư đã kể lại một kinh
nghiệm tương tự: “Đôi khi vô tình, người
ta đòi hỏi ai đó (hay con gì đó) không được sống như chính họ (hay chính nó). Hồi
nhỏ, mỗi lần thấy thầy giáo dắt con heo nọc đi bỏ giống là tôi thấy phiền lắm,
tôi nghĩ thầy chỉ nên đọc sách, tỉa cây kiểng, nuôi chim sáo hoặc rung đùi ngồi
đánh cờ chơi. Dù thầy nghèo xơ xác, dù vợ con thầy cực ăn ôm nhách, nhưng nếu cực
chẳng đã phải kiếm tiền, thì thầy nên mở tiệm kẹo, xi rô đá bào hay bán sách
báo...không lý nào xắn quần áo xắt chuối nấu cho heo, còn dắt nó đi lang lang
khắp xóm những khi tan buổi dạy. Tôi nghĩ vậy.
Hồi
đó, thầy sống như thầy có, lương thiện mưu sinh cho qua hồi cơ cực, nhưng lòng
kính trọng thầy của tôi bị sứt mẻ lảng òm. Như người ta không chịu anh bác sĩ
ăn mặc cù lần, xét nét ông kia tướng tá nông dân mà làm lãnh đạo, thất vọng khi
trên mắt nhà thơ tình nổi tiếng lại dính...ghèn...
Nói
về thành kiến thì ai cũng có một kho. Xưa tôi ghét mấy người mua bán ve chai,
do đã gặp vài người tiện tay ăn cắp vặt...Những buổi trưa thấy mấy chị ve chai
lầm lũi ngang qua, nắng mưa oằn cả hai cần xé, tôi bỗng nghĩ chẳng may tôi phải
ra đường mưu sinh bằng cách đó, tôi cũng sẽ phạm lỗi, biết đâu chừng...Cực khổ
cỡ nào tôi cũng chịu được, kể cả đói lạnh, nhưng con tôi thèm thịt đến nỗi đang
sốt dầm dề mà được ăn cháo trắng với thịt nướng là tỉnh trân, thì tôi cũng sẵn
sàng đánh cắp cái chảo, hay mớ sắt vụn, đoạn ống nước cũ...để đem về cho con một
bữa ngon.” (Nguyễn
ngọc Tư, Yêu người ngóng núi, nhà xuất bản Trẻ, tản văn tái bản lần thứ năm,
2011 trg 127-128)
Đọc tản văn trên đây của tác giả Nguyễn
ngọc Tư, tôi cũng làm một cuộc “xét mình” như Đạo công giáo của tôi thường dạy
làm. Tôi thấy mình rất nhiều lần muốn làm quan tòa để xét xử những người mà tôi
cho là có lối sống hay hành xử không giống tôi và cũng chẳng giống ai. Tôi thấy
mình muốn làm Đức Chúa Trời để đi sâu vào nội tâm sâu kín của người khác mà xét
xử. Tôi quên mất rằng mỗi một con người trong số bảy tỷ người đang có mặt trên
thế giới này là một “thế giới” đầy huyền nhiệm, cần được tôn trọng, chiêm ngưỡng
và cảm thông hơn là “xếp loại”, tổng quát hóa và nhứt là kết án.