Chu Thập
23.10.15
Cứ vào tháng 10 mỗi năm, đến mùa Giải Nobel Hòa Bình, tôi lại nôn nao
đón đợi kết quả. Có khi cũng hồi hộp chẳng khác nào theo dõi Giải Túc Cầu Thế
Giới. Cũng có kẻ thắng người thua. Chỉ
khác một điều là trong Giải Nobel Hòa Bình, tôi tin chắc rằng những con người
yêu chuộng hòa bình đích thực chẳng tỏ ra buồn bã hay ganh tức, mà trái lại còn vui mừng khi thấy vinh dự
được dành cho một người khác. Nhưng một người phàm phu tục tử như tôi thì thường
không có được một phản ứng như thế. Không những thất vọng mà có lúc tôi còn bực
tức và phẫn nộ là khác. Chẳng hạn như chuyện xảy ra hồi năm 1973 khi Ủy ban
Nobel Hòa Bình trao giải thưởng cao quý này cho hai ông Henry Kissinger, ngoại trưởng Mỹ và bộ trưởng ngoại giao cộng
sản Hà Nội lúc bấy giờ là ông Lê Đức Thọ (1911-1990) vì điều được gọi là “ có công trong việc thương thuyết để đạt
được cuộc ngưng bắn trong cuộc chiến Việt Nam”. Cuộc ngưng bắn nào thì thế giới
đã rõ. Như tạp chí Time lúc bấy giờ đã ghi nhận, có cả một làn sóng phẫn nộ đã
dấy lên khi Giải Nobel Hòa Bình được trao cho hai nhân vật mà người ta cho là
đã tạo ra và tiếp tục đeo đuổi chiến tranh. Một độc giả của tạp chí này ví von rằng “trao giải Nobel Hòa Bình cho Henry Kissinger và Lê
Đức Thọ thì chẳng khác nào trao giải thưởng cho
tú bà “Xaviera Hollander” (một cô gái
điếm Hòa Lan nổi tiếng) vì “nhân đức cao cả” của bà”. Ông Lê Đức Thọ đã từ chối
giải thưởng này, bởi vì sợ “há miệng mắc quai”. Làm sao dám nhận một giải thưởng như thế khi chữ ký trong
Hiệp Định Paris chưa ráo mực, quân đội cộng sản Bắc Việt đã ngang nhiên xé bỏ
hiệp định và ào ạt tràn xuống Miền Nam. Ông Lê Đức Thọ không trơ trẽn đến độ đến Oslo để nhận tấm bằng tưởng thưởng cùng với
một món tiền hậu hĩ và đăng đàn thuyết pháp về hòa bình trong khi vẫn còn giắt
dao găm trong bụng.
Đó là lần trao tặng Giải Nobel Hòa Bình khiến tôi buồn bã và thất vọng nhứt
về Giải này. Tôi cứ tưởng tượng cái cảnh mấy vị trong Ủy ban vừa ngủ gật vừa bỏ
phiếu. Hoặc tệ hại hơn, các vị nhảy múa và đùa giỡn trên chính sự chết chóc và đau
khổ của cả một dân tộc. Với tôi, chính cái giải Nobel Hòa Bình “chết tiệt” ấy
đã góp phần làm cho Miền Nam Việt Nam bị bức tử và đày đọa cả một dân tộc vào
khốn khổ triền miên. Nhìn lại quyết định oái oăm ấy, tôi sợ rằng rồi đây biết
đâu Ủy ban Nobel Hòa Bình lại chẳng trao tặng giải thưởng này cho Tổng thống Nga Vladimir Putin vì “ đã có công giúp ổn định
tình hình tại Syria” sau khi đưa quân đội vào nước này để bóp nghẹt mọi khát vọng
tự do và dân chủ của người dân và củng cố chế độ độc tài của ông Bashar
al-Assad. Hoặc giả biết đâu, nếu sự thể diễn ra đúng như tin đồn trong mấy ngày
vừa qua, thủ tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng sẽ giải thể Đảng Cộng Sản Việt Nam
để tiến tới độc tài cá nhân và Ủy ban Nobel Hòa Bình lại chẳng trao giải cho
ông. Lúc đó, có lẽ tôi không chỉ thất vọng hay phẫn nộ, mà chỉ còn biết cười ra
nước mắt.
Nếu tôi đã phẫn nộ khi Giải Nobel Hòa Bình được trao tặng cho hai ông Henry
Kissinger và Lê Đức Thọ hồi năm 1973, thì năm 2009, khi giải này được trao cho Tổng thống Mỹ Barack Obama, cũng như ông này, tôi rất đỗi “ngạc
nhiên”. Trước khi ra tranh cử tổng thống, ông thượng nghị sĩ chỉ mới có vài ba
năm tham gia chính trường, đã chẳng có bất cứ một thành tích nào trong sự nghiệp
mưu cầu hòa bình cho thế giới. Rồi sau một năm lên lãnh đạo quốc gia hùng mạnh
nhứt trái đất, ông cũng chẳng làm nên trò trống gì cho hòa bình thế giới. Không
biết Ủy ban Nobel có ngủ gật nữa không khi bỏ phiếu chọn ông. Còn như quyết định
trao tặng giải thưởng cao quý này cho ông Obama để hy vọng ông sẽ tỏ ra tích cực
hơn trong việc mưu cầu hòa bình thế giới, thì như ông Geir Lundestad, đương kim chủ tịch của Ủy ban đã nói với hãng
thông tấn AP, ông hối tiếc vì đã trao giải thưởng cho ông Obama. Bên kia nấm mồ, Alfred Nobel (1801-1872), người đã muốn xóa bỏ danh hiệu “ông vua chất
nổ” mà người ta đã gán cho mình khi lập
di chúc dành tài sản kết xù của mình để lập ra giải này, hẳn phải hối tiếc hơn, nhứt là khi giải này được trao tặng cho những kẻ nhân
danh hòa bình để ngồi xổm trên sự chết chóc và nỗi khổ đau của cả một dân tộc
như hai ông Henry Kissinger và Lê Đức Thọ.
Tôi đã thất vọng, phẫn nộ và ngạc nhiên về một số Giải thưởng Nobel Hòa
Bình. Nhưng ít ra năm nay, dù có chút ngạc nhiên, tôi vẫn cảm thấy phẩn khởi
khi giải này được trao cho 4 người Tunisia đã có công trong việc góp phần xây dựng
nền dân chủ tại nước này sau cuộc cách mạng Hoa Lài hồi năm 2011. Cuộc cách mạng
Hoa Lài đã mang lại một luồng gió dân chủ cho quốc gia Bắc Phi này. Nhưng con
đường dân chủ có nguy cơ bị tắt nghẽn sau khi
liên tục xảy ra những vụ ám sát chính trị, khủng bố và tình trạng xã hội ngày
càng bất ổn. Chính vì muốn đứng ra làm trung gian hòa giải và tạo động lực để
thúc đẩy nền dân chủ còn non nớt của Tunisia mà năm 2013, 4 người đại diện cho
4 tổ chức là Liên Đoàn Lao Động, Liên Đoàn Kỹ nghệ, Thương mại và Thủ công cùng
với Liên minh Nhân quyền và Luật sư đoàn, đã thành lập một tổ chức chung để đề
ra một giải pháp chính trị ôn hòa. Chỉ trong hơn một năm, nhóm 4 tổ chức này đã
giúp thiết lập được hệ thống chính quyền có khả năng bảo đảm được những quyền
căn bản cho người dân.
Thông thường, từ trước đến nay, Giải thưởng Nobel Hòa Bình chỉ đề cao nỗ lực của các chính trị gia, những
nhà tranh đấu cho nhân quyền bằng còn đường bất bạo động, các nhà từ thiện, các
cá nhân hoạt động cho quyền dân sự hoặc các tổ chức quốc tế. Với chiến tranh và
bạo động diễn ra khắp nơi và như cơm bữa, dường như những lời kêu gọi hòa bình
đã trở thành tiếng sáo rỗng đối với hàng triệu triệu người mà tiếng nói đã bị
bom đạn, dùi cui, báng súng và nhà tù bóp nghẹt.
Năm nay, khi Ủy ban Nobel Hòa Bình đã quyết định trao tặng Giải thưởng cao
quý này cho nhóm mà thế giới gọi là “Bộ Tứ Đối Thoại Quốc Gia” (The National Dialogue Quartet) ở Tunusia, trong đó đáng
chú ý nhứt là các công đoàn, sức mạnh của
tiếng nói tập thể của người dân đã được thế giới nhìn nhận. Giải Nobel Hòa Bình
năm nay đã thực sự nhìn nhận sức mạnh của tiếng nói ấy trong việc xây dựng một
xã hội hài hòa, hòa bình và ổn định.
“Bộ Tứ Đối Thoại Quốc Gia” tại Tunisia thật ra chỉ là đại diện của vô số tiếng
nói thầm lặng trong xã hội nước này. Sở dĩ “Bộ Tứ” này thành công trong việc
góp phần xây dựng một xã hội dân chủ và ổn định là nhờ có bàn tay góp sức của
không biết bao nhiêu người thiện chí khác không thiếu trong xã hội. Tất cả những
cuộc cách mạng bất bạo động trong lịch sử gần đây đã thành công là nhờ sức mạnh
của vô số những tiếng nói và sự góp công âm thầm ấy.
Tôi vẫn luôn cố gắng nuôi dưỡng tinh thần lạc quan mỗi khi nhìn vào thế giới.
Và điều giúp tôi lạc quan chính là sức mạnh của vô số những tiếng nói âm thầm
trong xã hội. Tin một viên cảnh sát Úc bị một thiếu niên cuồng tín bắn gục trước
đồn tại Parramatta quả là một tin buồn. Nhưng tôi cũng cảm thấy thật phấn khởi
khi các nhà lãnh đạo tôn giáo trong đó có vị Đại giáo trưởng Hồi giáo, Tiến sĩ Ibrhim Abu
Mohammed, đã đồng thanh lên án hành động man rợ này cũng như mọi hình thức khủng
bố khác. Các vị này chắc chắn đã nói lên tiếng nói của đám đông âm thầm, dù thuộc
chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo nào tại Úc Đại Lợi này.
Thế giới đang theo dõi những cuộc bạo động
vừa mới bùng nổ
tại Israel trong những ngày vừa qua. Những cuộc bạo động đẫm máu như thế đã trở
thành tin hàng đầu của các cơ quan truyền thông trên thế giới. Nhưng theo tôi,
đáng chú ý và đáng được đưa lên tin tức hàng đầu hơn phải là sự kiện có
hàng ngàn người gồm Do Thái và Á Rập đã
sát cánh bên nhau trong một cuộc biểu tình tại Jerusalem để kêu gọi cả hai phía
Israel lẫn Palestine hãy chấm dứt các cuộc bạo động và mở lại các cuộc hòa đàm.
Đoàn biểu tình đã trưng lên biểu ngữ: “Do Thái và Á Rập
không chấp nhận là kẻ thù của nhau”. Một giáo viên Do Thái đã nói với các phóng viên rằng ông tham gia
cuộc biểu tình là để chứng minh rằng người Do
Thái và người Á Rập, người Israel và người Palestine, có thể đứng chung với
nhau vì hòa bình của hai dân tộc. 2000 người có mặt trong cuộc biểu tình không
phải là một đám đông đáng kể, nhưng cũng đủ để đại diện cho số đông thầm lặng
mong muốn được sống yên ổn, hòa bình hơn là phải triền miên lo sợ vì bạo động.
Xét cho cùng, ngoại trừ những kẻ cuồng trí, những tên đồ tể hay những lãnh
tụ có đầu óc bá quyền, dù thuộc chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo nào, ai cũng
mong được sống trong hòa bình. Chế độ nào cũng dễ tồn tại bằng đường lối cai trị
hòa bình hơn là chiến tranh. Niccolò Machiavelli (1469-1527), sử gia, chính trị
gia và triết gia người Ý với tác phẩm để đời “Il Principe” (quân vương) và tên tuổi đồng nghĩa với “gian trá, xảo
quyệt”, lại nói một câu đáng ngạc nhiên: “Đám đông dễ được cai trị bằng tình
nhân đạo và lòng tử tế hơn là bằng thái độ ngạo mạn và sự tàn bạo”. Lý do thật
dễ hiểu: con người ta, tự bản chất, ai cũng mong được sống yên ổn. Hiawatha, một
lãnh tụ Thổ dân Bắc Mỹ, được
tưởng nhớ như một nhà lãnh đạo tinh thần và là một nhà tiên tri của bộ lạc
Huron, đã có một câu nói thật chí lý: “ Phàm là người ai cũng khao khát hòa
bình”. Hiến Pháp Hoa Kỳ nói đến quyền được tự do theo đuổi hạnh phúc. Thực vậy,
hạnh phúc là điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng hạnh
phúc lại là một ý niệm trừu tượng và mông lung. Có khi mỗi người đeo đuổi một hạnh
phúc theo quan niệm riêng của mình. Kỳ thực, con người chỉ thực sự hạnh phúc
khi họ có được bình an trong tâm hồn. Và dĩ nhiên, một trong những điều kiện
tiên quyết để có được sự bình an đích thực là phải xây dựng được hòa bình với
người khác. Làm sao có được cái tâm an bình nếu không có được quan hệ hài hòa
và tốt đẹp với người khác. Bất cứ một sự đổ vỡ trong quan hệ nào cũng làm cho
chúng ta khổ sở và bất an. Nói gì đến những toan tính ích kỷ và sự thù hận.
Cũng như bất cứ con người nào trên cõi đời này, tôi khao khát hạnh phúc và
mong được sống an bình. Là người của đám đông thầm lặng, có ngây ngô và lạc
quan tếu lắm tôi mới mong được trao giải
Nobel Hòa Bình. Nhưng tại sao tôi lại mơ tưởng xa xôi như thế? Còn phần thưởng
nào lớn lao và cao quý bằng sự bình an trong tâm hồn mà tôi chỉ có được khi xây
dựng các mối quan hệ hài hòa với người xung quanh, nhứt là người thân của tôi.