10.7.15

Các chuyên gia y tế Nhật Bản đang phải điên đầu trong nỗ lực ngăn ngừa hội
chứng này nơi các thế hệ tương lai. Hiện tượng tự giam tù này không những làm
xáo trộn cuộc sống gia đình mà còn đe dọa đến nền kinh tế của quốc gia.
Từ 3 năm nay, thế giới của Yuto Onishi, một cư dân tại Tokyo, được thu gọn
vào chiếc phòng nhỏ của anh. Người thanh niên 18 tuổi này ngủ suốt ngày. Đêm đến,
con ma cà rồng này lướt mạng và đọc chuyện “manga”, một loại truyện khôi hài nổi
tiếng hiện nay của Nhật Bản. Anh từ chối mọi giao tiếp với bạn bè và gia đình.
Nếu có chờ đêm xuống để ra khỏi phòng, anh cũng chỉ rón rén ra phố để ăn uống
mà thôi.
Giải thích về hiện tượng này, Onishi nói với đài ABC rằng “một khi đã vướng
vào hội chứng này, bạn hoàn toàn không còn ý thức về thực tại”. Chính anh biết
rằng đây là một tình trạng bất thường, nhưng anh lại không muốn thay đổi. Anh
nói rằng anh cảm thấy an toàn trong tình trạng tự giam tù này.
Một trong những nguyên nhân khiến nhiều thanh niên Nhật Bản rơi vào hội chứng
này là sức ép và sự căng thẳng trong việc học hành. Thời trung học đệ nhất cấp,
Onishi đã từng muốn được làm trưởng lớp. Nhưng vì không đạt được ước vọng
và bị chúng bạn đánh giá thấp, anh cảm
thấy xấu hổ cho nên rút lui vào bóng tối. Đối với Onishi và hàng triệu thanh
niên Nhật Bản như anh, áp lực của gia đình và xã hội là một gánh nặng họ không
chịu đựng nổi.
Bác sĩ Takahiro Kato là một trong những chuyên gia về hội chứng
“Hikikomori”. Bác sĩ Kato nói: “Trong các xã hội Tây Phương, nếu bạn giam mình
trong nhà, người ta bảo bạn hãy đi ra ngoài. Tại Nhật Bản thì không. Cuộc chơi
đã thay đổi: tất cả đều diễn ra trên màn ảnh, chứ không phải là những hoàn cảnh
của cuộc sống thực tế nữa”. Theo ông, cũng có những yếu tố văn hóa khiến thanh
niên Nhật Bản mắc hội chứng “Hikikomori”: họ cảm thấy không đủ tự tin và nhất
là về mặt tình cảm lại quá lệ thuộc vào người mẹ.
Vì những nguyên nhân và sự chữa trị hội chứng “Hikikomori” ít được biết đến
cho nên bác sĩ Kato đã làm mọi nỗ lực để ngăn ngừa thanh thiếu niên Nhật Bản khỏi
rơi vào hội chứng này. Hiện nay, viên bác sĩ này đang cầm đầu một nhóm nghiên cứu
tại Đại học Kyushu để tìm hiểu về hội chứng này. Ông cho biết: người ta chỉ chú
trọng đến khía cạnh tâm lý khi nghiên cứu về hiện tượng này, trong khi đó hội
chứng “Hikikomori” không chỉ là một thứ tâm bệnh. Chính vì vậy mà nhóm nghiên cứu
của bác sĩ Kato đặt nặng những khía cạnh xã hội và sinh lý của hiện tượng. Nói
chung, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Kato muốn có một sự chẩn đoán đa diện về hội
chứng này.
Tiến trình hồi phục khỏi hội chứng “Hikikomori” có thể là một con đường dài
và người càng tự giam mình lâu trong phòng ngủ thì càng khó ra khỏi đó.
Một trong những bệnh nhân của bác sĩ Kato, một thanh niên 23 tuổi, đã được
chữa trị từ một năm nay. Người thanh niên này cho biết mẹ anh là một người đàn
bà “độc tài”, kìm kẹp, luôn thúc ép con mình phải là một học sinh giỏi. Nhưng
vì không thể là một học sinh giỏi trong lớp cho nên anh đã bỏ học và tự giam
mình trong phòng ngủ. Anh nói: “Tôi muốn dẹp bỏ mọi sự...Tôi muốn ngưng mọi sự.
Tôi không muốn suy nghĩ...Tôi cũng chẳng muốn có bất cứ cảm xúc nào”.
Bác sĩ Kato nói rằng sự hồi phục từ hội chứng này chỉ có thể diễn ra nếu có
sự thay đổi trong các quan hệ trong gia đình. Điều đó có nghĩa là không riêng bệnh
nhân mà cả gia đình cũng cần được cố vấn về tâm lý. Nói cách khác, những bước đầu
của việc hồi phục chính là tái lập sự giao hảo và lòng tín nhiệm trong gia
đình.
Yuto là một thanh niên đã được chữa lành khỏi hội chứng “Hikikomori” từ 6
tháng nay. Anh đã ra khỏi phòng ngủ của mình. Chính giấc mơ được đi du lịch và
làm việc ở nước ngoài đã đưa anh ra khỏi phòng tự giam của mình. Anh cho biết:
tự mình đương đầu với nỗi đau của mình là một điều khủng khiếp. Theo anh, cần
phải có sự giúp đỡ của người khác bệnh nhân mới có thể có được một cái nhìn
khác về tương lai của mình.
Trường hợp được chữa trị và ra khỏi phòng tự giam của mình như Yuto không
phải là nhiều. Hiện vẫn còn hàng triệu thanh niên Nhật Bản đang tiếp tục giam
mình trong phòng ngủ của họ.
Nói chung, áp lực của gia đình và trường học vẫn là nguyên nhân chính đẩy
thanh thiếu niên Nhật Bản vào hiện tượng “Hikikomori”. Có lẽ hơn bất cứ nơi nào
trên thế giới, trường học là một nơi tạo nhiều áp lực hơn cả. Ngay từ tuổi thơ,
trẻ con Nhật Bản nào cũng được nhồi nhét vào đầu ý tưởng cho rằng bằng cấp đại
học là hành trang cần thiết cho sự thành công của chúng trong cuộc sống tương
lai. Vào được đại học danh tiếng thì sự thành công càng được bảo đảm. Nhiều đại
học đã bắt đầu tuyển lựa sinh viên không những tại các trường trung học mà còn
cả ở bậc mẫu giáo nữa. Càng thức thời thì cha mẹ càng muốn đầu tư cho con cái
càng sớm càng tốt. Mới 3,4 tuổi, trẻ con đã được gởi vào những vườn trẻ nổi tiếng
nhất để chuẩn bị cho bậc đại học của chúng. Chính vì hệ thống ganh đua một mất
một còn này mà khi chưa tới tuổi dậy thì, thanh thiếu niên đã được đánh giá là
thành công hay không trong tương lai.
Bên cạnh sức ép do sự ganh đua tạo ra, học sinh Nhật Bản còn phải đối đầu với
một tệ nạn ngày càng phổ biến là sự bắt nạt của chúng bạn. Nhiều em học sinh phải
bỏ học vì sợ bị chúng bạn bắt nạt. Nhưng không chỉ có học sinh mới bắt nạt
nhau. Đôi khi chính thày cô cũng tham gia vào trò chơi quái ác này. Người học
sinh bị bắt nạt không còn biết phải tìm sự cứu giúp và nương tựa vào ai nữa.
Chuyện thi cử ở Trung Học lại càng là một cơn ác mộng cho nhiều học sinh vì bị
báo chí và truyền thông theo dõi chặt chẽ.
Những áp lực do hệ thống giáo dục tại Nhật Bản tạo ra không chỉ tạo ra hiện
tượng tự giam mình trong phòng ngủ của thanh thiếu niên, mà còn là nguyên nhân
dẫn đến việc tự tử. Nhật Bản hiện vẫn còn là một
trong những quốc gia có tỷ lệ tự tử nơi thanh thiếu niên cao nhất trong các nước
có kỹ nghệ hàng đầu hiện nay. Nếu so với Hoa Kỳ, tỷ lệ tự tử của thanh thiếu
niên Nhật Bản cao gấp hai lần.Trong năm 2003, cứ 15 phút, có một vụ tự tử. Theo
thống kê, Tokyo là thành phố có tỷ lệ cư dân chết do chính bàn tay của mình cao
gấp 5 lần so với cái chết vì tai nạn giao thông.Tỷ lệ tự tử nơi người lớn được
xem là cao nhất. Nguyên nhân chính vẫn là những lo lắng về sức khỏe và kinh tế.
Tuy nhiên, hành động tự tử nơi giới trẻ hiện đang gia tăng theo một tỷ lệ đáng
báo động. Trong hai năm 2001 và 2002, số vụ tự tử nơi học sinh trung học đệ nhất
cấp và ngay cả tiểu học chiếm đến 57 phần trăm.
Cùng với hiện tượng tử tử, hệ thống
giáo dục của Nhật Bản cũng khiến cho
thanh thiếu niên nổi loạn chống lại xã hội truyền thống. Sự xuất hiện của các
băng mô tô chuyên quậy phá về đêm trên các đường phố là một trong những thể hiện
của sự nổi loạn của thanh thiếu niên.
Bên cạnh các hiện tượng như “Hikikomori”, tự tử hoặc nổi loạn, vào thập
niên 1980, còn có một hiện tượng khác mà người Nhật gọi là “furita”. Từ này
dùng để chỉ những người chỉ làm việc bán thời gian và tự do. Nhiều thanh niên,
nhất là những người không qua nổi kỳ thi tú tài để vào đại học, quyết định sống
mà không màng đến sự nghiệp tương lai. Họ chấp nhận làm công việc bán thời gian
với mức lương thấp để được tự do làm những gì mình muốn. Thái độ này có thể được
xem như một cuộc nổi loạn thụ động chống lại một xã hội trong đó hình ảnh và địa
vị xã hội có được nhờ bằng cấp và học vị luôn được trọng nể. Theo thống kê, hiện
tại Nhật Bản, con số những người “furita” tuổi từ 15 đến 34 tính từ năm 1991 đến
năm 2001 đã tăng gấp đôi. Có khoảng 10.1 phần trăm lực lượng lao động của Nhật
Bản thuộc thành phần “furita” này.
Nhưng trong các hiện tượng xã hội tại Nhật Bản hiện nay, đáng lo ngại nhất
vẫn là hiện tượng giới trẻ bị thu hút bởi bạo lực và chết chóc. Trong hậu bán
thế kỷ 20 vừa qua, Nhật Bản được ghi nhận là một trong những nước không có bạo
động giết người, ngay cả trong các đô thị. Tuy nhiên, năm 1997, một thiếu niên
14 tuổi đã khiến cho cả nước phải sửng sốt khi chặt đầu một học sinh 11 tuổi và
đem bỏ trước cổng trường của học sinh này. Kể từ đó, người dân Nhật thường
xuyên chứng kiến hay nghe nói đến các vụ bạo động nơi thanh thiếu niên. Trong một
bài phóng sự dạo tháng 8 năm 2004, báo
The Washington Post của Hoa Kỳ đã ghi nhận rằng tính đến năm 2002, tỷ lệ các vụ
bạo động trong trường học tại Nhật Bản đã gia tăng gấp năm lần so với thập niên
trước. Một tờ báo tại Nhật Bản cũng đã cảnh cáo rằng sân trường đã biến thành
chiến trường.
Dĩ nhiên, tương ứng với nạn bạo động gia tăng và hiện tượng thanh thiếu
niên chạy trốn khỏi xã hội chính là sự xuống cấp về đạo đức của xã hội. Lâu
nay, Nhật Bản vẫn là thị trường tình dục lớn nhất đối với các phụ nữ Á Châu.
Đàn ông Nhật vẫn được xem là nhóm người du lịch tình dục lớn nhất tại lục địa
này. Chỉ riêng tại một khu dành cho kỹ nghệ tình dục không rộng bằng một nửa
cây số vuông tại Tokyo, người ta đếm được 3.500 “tiệm” tình dục đủ loại. Tham
gia vào kỹ nghệ này cũng có những thiếu nữ vị thành niên đang học trung học. Sở
dĩ họ làm nghề này là vì họ “quá lười biếng” để làm việc, nhưng lại thích có tiền
để sắm hàng hiệu.
Nhìn chung, các hiện tượng xã hội tại Nhật Bản hiện nay, từ việc tự giam tù
đến tự tử và bạo động nơi thanh thiếu niên, đều qui về một mối: rất nhiều người
thuộc thế hệ trẻ Nhật Bản hiện nay không còn nhìn thấy đâu là lý tưởng và mục
đích của cuộc sống. Chính quyền và các chuyên gia vẫn chưa tìm được những giải
pháp thích đáng cho cuộc khủng hoảng mà người ta có thể nói là “đạo đức” của giới
trẻ hiện nay. Lời hứa hẹn về một cuộc sống phồn vinh xem ra không còn đủ sức hấp
dẫn đối với giới trẻ Nhật Bản bởi vì họ đã nhìn thấy sự trống rỗng tinh thần của
những thế hệ đi trước.
(theo ABC và báo mạng “The Mercer Family”)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét