Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Một số hiện tượng xã hội nơi thanh thiếu niên Nhật Bản


10.7.15
“Hikikomori” là cụm từ người Nhật Bản hiện nay sử dụng để nói về hiện tượng thanh niên nước này tự giam mình trong phòng ngủ và chấm dứt mọi quan hệ với xã hội và thế giới bên ngoài. Đây là một trong những vấn đề xã hội và y tế trầm trọng nhất hiện nay tại quốc gia có nền kinh tế đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Hiện đang có khoảng một triệu người, phần lớn thuộc nam giới, đang giam mình trong phòng ngủ và không muốn ra khỏi đó.
Các chuyên gia y tế Nhật Bản đang phải điên đầu trong nỗ lực ngăn ngừa hội chứng này nơi các thế hệ tương lai. Hiện tượng tự giam tù này không những làm xáo trộn cuộc sống gia đình mà còn đe dọa đến nền kinh tế của quốc gia.
Từ 3 năm nay, thế giới của Yuto Onishi, một cư dân tại Tokyo, được thu gọn vào chiếc phòng nhỏ của anh. Người thanh niên 18 tuổi này ngủ suốt ngày. Đêm đến, con ma cà rồng này lướt mạng và đọc chuyện “manga”, một loại truyện khôi hài nổi tiếng hiện nay của Nhật Bản. Anh từ chối mọi giao tiếp với bạn bè và gia đình. Nếu có chờ đêm xuống để ra khỏi phòng, anh cũng chỉ rón rén ra phố để ăn uống mà thôi.
Giải thích về hiện tượng này, Onishi nói với đài ABC rằng “một khi đã vướng vào hội chứng này, bạn hoàn toàn không còn ý thức về thực tại”. Chính anh biết rằng đây là một tình trạng bất thường, nhưng anh lại không muốn thay đổi. Anh nói rằng anh cảm thấy an toàn trong tình trạng tự giam tù này.
Một trong những nguyên nhân khiến nhiều thanh niên Nhật Bản rơi vào hội chứng này là sức ép và sự căng thẳng trong việc học hành. Thời trung học đệ nhất cấp, Onishi đã từng muốn được làm trưởng lớp. Nhưng vì không đạt được ước vọng và  bị chúng bạn đánh giá thấp, anh cảm thấy xấu hổ cho nên rút lui vào bóng tối. Đối với Onishi và hàng triệu thanh niên Nhật Bản như anh, áp lực của gia đình và xã hội là một gánh nặng họ không chịu đựng nổi.
Bác sĩ Takahiro Kato là một trong những chuyên gia về hội chứng “Hikikomori”. Bác sĩ Kato nói: “Trong các xã hội Tây Phương, nếu bạn giam mình trong nhà, người ta bảo bạn hãy đi ra ngoài. Tại Nhật Bản thì không. Cuộc chơi đã thay đổi: tất cả đều diễn ra trên màn ảnh, chứ không phải là những hoàn cảnh của cuộc sống thực tế nữa”. Theo ông, cũng có những yếu tố văn hóa khiến thanh niên Nhật Bản mắc hội chứng “Hikikomori”: họ cảm thấy không đủ tự tin và nhất là về mặt tình cảm lại quá lệ thuộc vào người mẹ.
Vì những nguyên nhân và sự chữa trị hội chứng “Hikikomori” ít được biết đến cho nên bác sĩ Kato đã làm mọi nỗ lực để ngăn ngừa thanh thiếu niên Nhật Bản khỏi rơi vào hội chứng này. Hiện nay, viên bác sĩ này đang cầm đầu một nhóm nghiên cứu tại Đại học Kyushu để tìm hiểu về hội chứng này. Ông cho biết: người ta chỉ chú trọng đến khía cạnh tâm lý khi nghiên cứu về hiện tượng này, trong khi đó hội chứng “Hikikomori” không chỉ là một thứ tâm bệnh. Chính vì vậy mà nhóm nghiên cứu của bác sĩ Kato đặt nặng những khía cạnh xã hội và sinh lý của hiện tượng. Nói chung, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Kato muốn có một sự chẩn đoán đa diện về hội chứng này.
Tiến trình hồi phục khỏi hội chứng “Hikikomori” có thể là một con đường dài và người càng tự giam mình lâu trong phòng ngủ thì càng khó ra khỏi đó.
Một trong những bệnh nhân của bác sĩ Kato, một thanh niên 23 tuổi, đã được chữa trị từ một năm nay. Người thanh niên này cho biết mẹ anh là một người đàn bà “độc tài”, kìm kẹp, luôn thúc ép con mình phải là một học sinh giỏi. Nhưng vì không thể là một học sinh giỏi trong lớp cho nên anh đã bỏ học và tự giam mình trong phòng ngủ. Anh nói: “Tôi muốn dẹp bỏ mọi sự...Tôi muốn ngưng mọi sự. Tôi không muốn suy nghĩ...Tôi cũng chẳng muốn có bất cứ cảm xúc nào”.
Bác sĩ Kato nói rằng sự hồi phục từ hội chứng này chỉ có thể diễn ra nếu có sự thay đổi trong các quan hệ trong gia đình. Điều đó có nghĩa là không riêng bệnh nhân mà cả gia đình cũng cần được cố vấn về tâm lý. Nói cách khác, những bước đầu của việc hồi phục chính là tái lập sự giao hảo và lòng tín nhiệm trong gia đình.
Yuto là một thanh niên đã được chữa lành khỏi hội chứng “Hikikomori” từ 6 tháng nay. Anh đã ra khỏi phòng ngủ của mình. Chính giấc mơ được đi du lịch và làm việc ở nước ngoài đã đưa anh ra khỏi phòng tự giam của mình. Anh cho biết: tự mình đương đầu với nỗi đau của mình là một điều khủng khiếp. Theo anh, cần phải có sự giúp đỡ của người khác bệnh nhân mới có thể có được một cái nhìn khác về tương lai của mình.
Trường hợp được chữa trị và ra khỏi phòng tự giam của mình như Yuto không phải là nhiều. Hiện vẫn còn hàng triệu thanh niên Nhật Bản đang tiếp tục giam mình trong phòng ngủ của họ.
Nói chung, áp lực của gia đình và trường học vẫn là nguyên nhân chính đẩy thanh thiếu niên Nhật Bản vào hiện tượng “Hikikomori”. Có lẽ hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, trường học là một nơi tạo nhiều áp lực hơn cả. Ngay từ tuổi thơ, trẻ con Nhật Bản nào cũng được nhồi nhét vào đầu ý tưởng cho rằng bằng cấp đại học là hành trang cần thiết cho sự thành công của chúng trong cuộc sống tương lai. Vào được đại học danh tiếng thì sự thành công càng được bảo đảm. Nhiều đại học đã bắt đầu tuyển lựa sinh viên không những tại các trường trung học mà còn cả ở bậc mẫu giáo nữa. Càng thức thời thì cha mẹ càng muốn đầu tư cho con cái càng sớm càng tốt. Mới 3,4 tuổi, trẻ con đã được gởi vào những vườn trẻ nổi tiếng nhất để chuẩn bị cho bậc đại học của chúng. Chính vì hệ thống ganh đua một mất một còn này mà khi chưa tới tuổi dậy thì, thanh thiếu niên đã được đánh giá là thành công hay không trong tương lai.
Bên cạnh sức ép do sự ganh đua tạo ra, học sinh Nhật Bản còn phải đối đầu với một tệ nạn ngày càng phổ biến là sự bắt nạt của chúng bạn. Nhiều em học sinh phải bỏ học vì sợ bị chúng bạn bắt nạt. Nhưng không chỉ có học sinh mới bắt nạt nhau. Đôi khi chính thày cô cũng tham gia vào trò chơi quái ác này. Người học sinh bị bắt nạt không còn biết phải tìm sự cứu giúp và nương tựa vào ai nữa. Chuyện thi cử ở Trung Học lại càng là một cơn ác mộng cho nhiều học sinh vì bị báo chí và truyền thông theo dõi chặt chẽ.
Những áp lực do hệ thống giáo dục tại Nhật Bản tạo ra không chỉ tạo ra hiện tượng tự giam mình trong phòng ngủ của thanh thiếu niên, mà còn là nguyên nhân dẫn đến việc tự tử. Nhật Bản hiện vẫn còn là một trong những quốc gia có tỷ lệ tự tử nơi thanh thiếu niên cao nhất trong các nước có kỹ nghệ hàng đầu hiện nay. Nếu so với Hoa Kỳ, tỷ lệ tự tử của thanh thiếu niên Nhật Bản cao gấp hai lần.Trong năm 2003, cứ 15 phút, có một vụ tự tử. Theo thống kê, Tokyo là thành phố có tỷ lệ cư dân chết do chính bàn tay của mình cao gấp 5 lần so với cái chết vì tai nạn giao thông.Tỷ lệ tự tử nơi người lớn được xem là cao nhất. Nguyên nhân chính vẫn là những lo lắng về sức khỏe và kinh tế. Tuy nhiên, hành động tự tử nơi giới trẻ hiện đang gia tăng theo một tỷ lệ đáng báo động. Trong hai năm 2001 và 2002, số vụ tự tử nơi học sinh trung học đệ nhất cấp và ngay cả tiểu học chiếm đến 57 phần trăm.
Cùng với hiện tượng tử tử,  hệ thống giáo dục của Nhật Bản  cũng khiến cho thanh thiếu niên nổi loạn chống lại xã hội truyền thống. Sự xuất hiện của các băng mô tô chuyên quậy phá về đêm trên các đường phố là một trong những thể hiện của sự nổi loạn của thanh thiếu niên.
Bên cạnh các hiện tượng như “Hikikomori”, tự tử hoặc nổi loạn, vào thập niên 1980, còn có một hiện tượng khác mà người Nhật gọi là “furita”. Từ này dùng để chỉ những người chỉ làm việc bán thời gian và tự do. Nhiều thanh niên, nhất là những người không qua nổi kỳ thi tú tài để vào đại học, quyết định sống mà không màng đến sự nghiệp tương lai. Họ chấp nhận làm công việc bán thời gian với mức lương thấp để được tự do làm những gì mình muốn. Thái độ này có thể được xem như một cuộc nổi loạn thụ động chống lại một xã hội trong đó hình ảnh và địa vị xã hội có được nhờ bằng cấp và học vị luôn được trọng nể. Theo thống kê, hiện tại Nhật Bản, con số những người “furita” tuổi từ 15 đến 34 tính từ năm 1991 đến năm 2001 đã tăng gấp đôi. Có khoảng 10.1 phần trăm lực lượng lao động của Nhật Bản thuộc thành phần “furita” này.
Nhưng trong các hiện tượng xã hội tại Nhật Bản hiện nay, đáng lo ngại nhất vẫn là hiện tượng giới trẻ bị thu hút bởi bạo lực và chết chóc. Trong hậu bán thế kỷ 20 vừa qua, Nhật Bản được ghi nhận là một trong những nước không có bạo động giết người, ngay cả trong các đô thị. Tuy nhiên, năm 1997, một thiếu niên 14 tuổi đã khiến cho cả nước phải sửng sốt khi chặt đầu một học sinh 11 tuổi và đem bỏ trước cổng trường của học sinh này. Kể từ đó, người dân Nhật thường xuyên chứng kiến hay nghe nói đến các vụ bạo động nơi thanh thiếu niên. Trong một bài phóng sự  dạo tháng 8 năm 2004, báo The Washington Post của Hoa Kỳ đã ghi nhận rằng tính đến năm 2002, tỷ lệ các vụ bạo động trong trường học tại Nhật Bản đã gia tăng gấp năm lần so với thập niên trước. Một tờ báo tại Nhật Bản cũng đã cảnh cáo rằng sân trường đã biến thành chiến trường.
Dĩ nhiên, tương ứng với nạn bạo động gia tăng và hiện tượng thanh thiếu niên chạy trốn khỏi xã hội chính là sự xuống cấp về đạo đức của xã hội. Lâu nay, Nhật Bản vẫn là thị trường tình dục lớn nhất đối với các phụ nữ Á Châu. Đàn ông Nhật vẫn được xem là nhóm người du lịch tình dục lớn nhất tại lục địa này. Chỉ riêng tại một khu dành cho kỹ nghệ tình dục không rộng bằng một nửa cây số vuông tại Tokyo, người ta đếm được 3.500 “tiệm” tình dục đủ loại. Tham gia vào kỹ nghệ này cũng có những thiếu nữ vị thành niên đang học trung học. Sở dĩ họ làm nghề này là vì họ “quá lười biếng” để làm việc, nhưng lại thích có tiền để sắm hàng hiệu.
Nhìn chung, các hiện tượng xã hội tại Nhật Bản hiện nay, từ việc tự giam tù đến tự tử và bạo động nơi thanh thiếu niên, đều qui về một mối: rất nhiều người thuộc thế hệ trẻ Nhật Bản hiện nay không còn nhìn thấy đâu là lý tưởng và mục đích của cuộc sống. Chính quyền và các chuyên gia vẫn chưa tìm được những giải pháp thích đáng cho cuộc khủng hoảng mà người ta có thể nói là “đạo đức” của giới trẻ hiện nay. Lời hứa hẹn về một cuộc sống phồn vinh xem ra không còn đủ sức hấp dẫn đối với giới trẻ Nhật Bản bởi vì họ đã nhìn thấy sự trống rỗng tinh thần của những thế hệ đi trước.

(theo ABC và báo mạng “The Mercer Family”)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét