Chu Thập
22.1.16
Lâu lắm rồi
tôi không còn “ăn Tết” nữa. “Thịt mỡ dưa hành” chỉ còn hiện hữu trong ký ức.
Bánh chưng, bánh tét thì năm thì mười họa mới được thưởng thức một lát. Cành mai
và mâm ngũ quả chỉ còn được ngắm hàm thụ
trong văn chương...Dù vậy, tôi vẫn đón Tết và “ăn Tết” theo cách thế của tôi.
Bao lâu còn là một người tỵ nạn Việt Nam thì tôi vẫn còn “ăn Tết”. Tôi không thể
quên Tết vì một lý do rất đơn giản: đó
là ngày sinh của tôi. Giấy khai sinh hiện nay của tôi có lẽ chỉ chính xác hơn
ngày sinh của Hồ Chí Minh một chút
thôi. Tôi không biết chính xác
mình có mặt trên cõi đời này vào ngày giờ
nào. Cha mẹ tôi chỉ nói rằng tôi sinh ra vào khoảng tháng chạp, cuối năm âm lịch,
cầm tinh con chó. Thật ra suốt cả nửa cuộc đời ở Việt Nam, tôi có bao giờ ngó
ngàng đến ngày tháng năm sinh của mình đâu. Ra nước ngoài, học thói văn minh của
người Tây Phương, tôi mới bày đặt mừng
sinh nhựt, tổ chức tiệc tùng, thổi nến, cắt bánh và hát Happy Birthday rồi cứ
“hip hip”. Có lúc cảm thấy ngường ngượng vì ngày sinh của mình giả tạo quá đi
thôi.
Mừng sinh nhựt
vào ngày Tết, tôi thấy nó ý nghĩa và linh thiêng hơn. Chín tháng mười ngày
trong dạ mẹ đã là một tuổi rồi, cho nên cứ mỗi cái Tết tính thêm một tuổi là
chuyện hợp lý quá. Thành ra cứ mỗi dịp cuối năm, tôi chuẩn bị đón Tết đã đành
mà cũng nghĩ đến ngày sinh của mình. Tết đến, thêm một tuổi cho nên tôi cũng
thường nghĩ đến quỹ thời gian còn lại của mình. Hướng về phía trước tôi cứ phải
lập lại một số quyết tâm. Nhưng nhìn lại phía sau, tôi không thể không tự vấn
lương tâm về cách sử dụng thời giờ và của cải mình có trong tay. Phải đấm ngực
“tự thú trước bình minh” rằng mình đã “mất” quá nhiều thời giờ cho những thứ
không cần thiết cho cuộc sống. Cuộc sống ngày càng trở thành cồng kềnh đến khó
thở vì mình đã tích lũy quá nhiều thứ không bao giờ đụng đến.
Mới đây,
nhân dịp cuối năm, bạn bè gởi đến cho tôi vài con số “thống kê” đáng suy nghĩ.
Theo bản “thống kê” không đề xuất xứ này, có đến 70 phần trăm của cải, phương
tiện và dịch vụ trong cuộc sống con người thời đại là thừa thãi. “Một chiếc máy smart phone cao cấp, 70 phần
trăm chức năng là thừa. Một chiếc xe hơi sedan hạng sang, 70 phần trăm tốc độ
là dư thừa. Một căn biệt thự sang trọng, 70 phần trăm diện tích là trống trải.
Một đội ngũ nhân viên phục vụ, 70 phần trăm là kiếm cơm. Một ngôi trường đại học,
70 phần trăm giáo sư là chém gió. Một đại đội hoạt động xã hội, 70 phần trăm là
nhàn rỗi trống rỗng. Một căn phòng đầy quần áo thời trang mỹ phẩm, 70 phần trăm
là không mấy khi dùng đến. Một đời người, cho dù kiếm thêm nhiều tiền đi nữa,
70 phần trăm là để lại cho người khác tiêu xài”.
Tôi không biết
tỷ lệ 70 phần trăm trong “thống kê” trên đây có đáng tin tưởng không. Nhưng
nhìn vào những gì tôi đang có trước mắt, tôi thấy tỷ lệ này còn hơn cả chính
xác nữa. Chẳng hạn, ngôi nhà tôi đang ở, chỉ có hai vợ chồng, hiện đang bỏ trống
đến 3 phòng ngủ. Nhìn vào tủ sách trước mặt, tôi thấy có đến hơn 70 phần trăm số
sách tôi trưng bày là đề tỏ ra mình là “người
trí thức có đọc sách” hơn là được sử dụng. Ngó sang nhà bếp, tôi muốn ngộp thở
vì không dưới 70 phần trăm nồi niêu, xoong chảo, chén bát, ly tách, dao kéo...thừa
thải. Nói gì đến tủ quần áo và giày dép: có đến hơn 70 phần trăm không được đụng
đến.
Sự thừa thãi
nào cũng ít hay nhiều tạo ra bất công. Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng. Trong
khi mình dư thừa không biết để đâu cho hết thì người khác lại thiếu thốn. Đó
không phải là một tình trạng bất công sao.Theo một kết quả của một cuộc nghiên
cứu mới nhứt do tổ chức từ thiện Oxfam bên Anh Quốc thực hiện, hiện nay 62 tỷ
phú giàu nhứt thế giới đang chiếm giữ trong tay số tài sản nhiều bằng một nửa
dân số thế giới. Nghe mà muốn rụng rời tay chân. Cũng theo tổ chức từ thiện nói
trên, cách đây 5 năm, phải có tới 388 người giàu nhứt thế giới mới chiếm được
tài sản của một nửa dân số thế giới. Nay số người “siêu giàu” thì ngày càng
giàu, còn số người nghèo ngày càng nghèo. Tài sản của một nửa dân số thế giới,
tức khoảng 3.6 tỷ người, đã giảm khoảng 1000 tỷ Mỹ kim, trong khi tài sản của
những người “siêu giàu” lại tăng thêm 500 tỷ Mỹ kim.
Tôi chưa bao
giờ lâm cảnh nghèo nàn mạt rệp để thấm được thế nào là đói khổ, cơ hàn. Tôi
cũng chưa bao giờ có dư tiền rừng bạc bể để hiểu được tâm trạng của người giàu.
Nhưng cứ theo tâm lý thông thường, ai cũng nghĩ rằng đồng tiển liền khúc ruột:
của cải không những làm nên con người của mình, mà cũng sẽ mãi mãi gắn liền với
bản thân mình. Có lẽ nghĩ như thế cho nên con người ta cứ thích tích lĩy cho
nhiều của cải và ít muốn chia sẻ với người khác, ngay cả những gì mình không cần
đến. Kỳ thực, một trong những nghịch lý lớn nhứt trong cuộc đời thường được người
Tây Phương tóm gọn trong câu nói: “không dùng là mất” (use it or lose it). Nhiều
người chỉ áp dụng châm ngôn này vào sinh hoạt tình dục. Nhưng tôi nhận thấy
nguyên tắc này cũng được ứng dụng vào hầu như mọi lãnh vực của cuộc sống con
người.
Trước hết,
hãy nhìn vào sức khỏe thể lý. Mỗi ngày, tôi có thể chạy bộ nửa tiếng dễ dàng.
Thế nhưng chỉ cần một tuần đầu năm bận rộn “ăn chơi đàn đúm”, chạy trở lại mới
năm phút đã thở dốc. Là một động vật, thiếu vận động tôi biến thành “tĩnh vật”
dễ như chơi. Đúng là “không dùng là mất”.
Năng lượng
dư thừa từ việc ăn quá nhiều biến thành mỡ dư mà tôi chẳng mấy khi có dịp dùng
đến cũng vậy. Tôi tin rằng hầu hết các thứ bệnh về tim mạch và tiểu đường đều
là hậu quả của năng lượng được nạp quá tải nhưng không được “dùng”. Năng lượng
không dùng là năng lượng mất đi.
Hoạt động của
não bộ của tôi cũng tuân theo nguyên tắc “không dùng là mất” ấy. Não bộ không
năng hoạt động thì sẽ teo tóp lại. Trí nhớ không được tập luyện lâu ngày sẽ cùn
mằn. Không chịu “động não” để suy nghĩ bằng cái đầu của mình, mà cứ dựa vào những
gì người khác nghĩ dùm cho mình, không chóng thì chày cái đầu của tôi sẽ trở
nên rỗng tuếch, nếu không muốn nói là trở thành một người máy, một cái xác
không hồn hay tệ hơn một kẻ nô lệ. Ai đó đã viết rằng một trong những điều ngớ
nhẩn nhứt mà con người thời đại thường làm là “mang mặt nạ để nhìn vào thế giới”.
Xã hội càng hiện đại, con người càng đeo vào người nhiều chiếc mặt nạ để đối
phó với cuộc sống. Người ta dành quá nhiều thời giờ hay đúng hơn “mất” quá nhiều
thời giờ để quan tâm đến cách nhìn và suy nghĩ của người khác hoặc cố gắng trở
thành người mà những người xung quanh mong đợi và như vậy quên đi mất bản thân
mình là ai. Đánh mất chính mình là mất tất cả. Đây là sự mất mát tột cùng trong
đời người.
Riêng về quỹ
thời gian, nghịch lý “không dùng là mất” xem ra ứng dụng triệt để hơn. Ở tuổi
thất thập cổ lai hy, như người Việt Nam trong nước thường nói, tôi đã trở thành
“tỷ phú thời gian”. Tôi giàu thời gian đến độ không biết để đâu cho hết. Nhưng
tôi cũng nhận thấy rằng không gì dễ mất cho bằng thời giờ. Mất giờ nhiều nhứt
khi lười biếng, nghĩa là khi thời giờ chẳng
được dùng vào bất cứ sinh hoạt nào. Mất thời giờ dẫn đến mất chính bản thân.
Người xưa đã có lý để nói “nhàn cư vi bất thiện”. Hoặc như nhà Đạo của tôi diễn
giải, “ở không nhưng là cội rễ mọi sự dữ”. Lười biếng khiến thân xác mệt mỏi, bệnh hoạn. Lười biếng
làm cho tâm hồn nặng nề, chán nản, thất vọng, bại hoại và buông xuôi. Và dĩ
nhiên, do lười biếng, tinh thần khó có thể lành mạnh và như vậy cũng khiến cho
thân xác yếu nhược.
Nhưng không
đâu nguyên tắc “không dùng là mất” có giá trị cho bằng của cải vật chất. “Bất động
sản” là hình ảnh nổi bật hơn cả về sự mất mát khi của cải không được sử dụng.
Thật vậy, ngôi biệt thự rộng lớn mà toàn bộ không gian không được tôi sử dụng sẽ
chỉ là một ngôi nhà ma. Khi tôi nhắm mắt xuôi tay, tôi sẽ chẳng mang theo được
bất cứ viên gạch, thanh sắt hay mảnh gỗ nào trong ngôi nhà rộng lớn ấy. Số phận
của tiền rừng bạc bể tôi cất dấu trong ngân hàng lại càng rõ ràng hơn. Tôi sẽ
trắng tay khi nằm xuống. Người khác, dù là người thân của tôi, sẽ chiếm lấy và
cùng lắm sẽ tặng cho tôi một ít tiền mã mà thực chất tôi cũng chỉ hưởng được một
chút khói trắng mà thôi.
Tôi tin chắc
rằng những người như tỷ phú Bill Gates hẳn đều đã biết đến nghịch lý “dùng hay
là mất” trong việc sử dụng tiền của. Dĩ nhiên, dùng cũng có trăm nghìn cách
dùng. Có người dùng tiền để mua đủ mọi thứ khoái lạc và phù phiếm trong cuộc sống.
Họ phung phí hơn là dùng của cải. “Dùng” đúng nghĩa, như tỷ phú Bill Gates, tỷ
phú Warren Buffet hoặc ngay cả trẻ phú trẻ Mark Zuckerberg...đã chứng tỏ, nếu
không hiến tặng toàn bộ thì ít nhứt cũng một phần lớn tài sản của mình cho công
cuộc từ thiện. Với tôi, những người này có tên trong danh sách 62 người giàu nhứt
thế giới không phải vì họ có nhiều tiền, mà vì họ đã biết dùng tiền. Khi nhắm mắt
xuôi tay, cũng như bao nhiêu người khác, họ sẽ chẳng mang theo được đồng xu cắc
bạc nào. Nhưng họ cũng chẳng có gì để mất. Trái lại, ngay từ cuộc sống này, mỗi
khi họ dùng tiền cho tha nhân, họ chỉ có thể giàu có hơn mà thôi. Giàu nhân
nghĩa, giàu nhân cách, giàu nhân ái, giàu tình người. Nếu như cùng đích của đời
người là “nên người hơn” thì họ mới thực sự là những người giàu có.
Đó là sự giàu
có mà càng đi đến cuối cuộc đời, khi nhìn lại, tôi thấy mình đã bỏ lỡ không biết
bao nhiêu cơ hội để tích lũy. Mỗi dịp Tết, thêm một tuổi, dọn dẹp ngôi nhà nội
tâm là điều tôi thấy cần phải làm hơn cả. Dọn dẹp cho có “ngăn nắp” hầu sống có
kỷ luật và điều độ hơn đã đành, mà cấp thiết hơn cả là dẹp bỏ, cắt tỉa những thứ
cản ngại, trì trệ khiến cho nhân cách phải thui chột, nghèo nàn. Với tôi, tuổi
thọ đích thực không phải là số năm tháng mình có được, mà là phẩm chất của cuộc
sống, sự giàu có mình tích lũy được cho nhân cách. Nhiều tuổi mà nhân cách ngày
càng teo tóp lại thì đúng là “chiếc bình vôi” ngày càng vơi cạn của cụ Phan
Khôi. Có những “cụ già” mới 20 tuổi, mà cũng không thiếu những “thanh niên” cường
tráng ở tuổi 80. Tuổi xuân, sức mạnh và sự giàu có đích thực không hệ tại ở tuổi
tác, sức mạnh thể lý và của cải vật chất, mà là thể hiện của một nhân cách được
làm giàu bằng nhân nghĩa, lòng quảng đại, sự chia sẻ. Đó là điều tôi hằng mơ ước
cho bản thân và dĩ nhiên cũng là điều tôi cầu mong cho bạn bè và người thân
trong lời cầu chúc “Phúc lộc thọ”.