Chu Thập
2.10.16
Cha mẹ tôi không
viết nổi một chữ “chi” trong Hán văn, nhưng lại rất thích “xổ” nho. Trong những
khuôn vàng thước ngọc mà ông bà hay dạy cho con cái, tôi vẫn nhớ mãi câu “Nghĩa tử nghĩa tận”. Qua cách xử sự của
cha mẹ tôi, tôi hiểu được rằng khi sống người ta có gây thù oán đến đâu, đến
lúc họ chết mình cũng phải hỉ xả bỏ qua để làm việc nghĩa cuối cùng đối với họ
như cúng bái, tiễn đưa và chia buồn với gia đình họ. Khi con người nằm xuống, họ
chẳng có gì để ta phải kèn cựa hơn thua hay thù oán nữa.
Người Tây phương
có lẽ không biết thành ngữ này, nhưng cách họ đối xử với người chết cho thấy họ
cũng xem việc tôn trọng người chết như một nghĩa vụ thánh thiêng. Có độc ác và
gây thù chuốc oán ngút ngàn như trùm khủng bố Osama Bin Laden đi nữa, khi nằm
xuống cũng được người Mỹ tống táng, dù có vội vàng và kín đáo đến đâu, theo
đúng nghi thức tôn giáo của ông.
Chính vì người chết
nào cũng vẫn còn có một phẩm giá đáng được tôn trọng mà cả thế giới đã phẫn nộ
trước hình ảnh của 4 thủy quân lục chiến Mỹ đứng “tè” lên tử thi của ba người Taliban
tại Afghanistan hồi đầu tháng Giêng vừa qua. Bỉ ổi hơn nữa khi cử chỉ này được
thu hình và phát tán đi khắp nơi. Đó là
một cử chỉ man rợ không xứng đáng trong một thế giới văn minh ở thế kỷ 21 này.
Mới đây, không
riêng các chính trị gia, mà có lẽ cả nước Úc cũng cảm thấy “hổ thẹn” lây khi một
ký giả lão thành nổi tiếng của đài phát thanh 2GB là ông Alan Jones đã quên mất
cái nghĩa vụ thánh thiêng đối với người chết ấy để xúc phạm đến ông Gillard và
“xỉa xói” con gái của ông là thủ tướng Julia Gillard. Trong một cuộc gặp gỡ của
một nhóm thành viên Đảng Tự Do, ông Jones đã tuyên bố một cách trắng trợn rằng
ông Gillard “chết vì xấu hổ” bởi tính dối trá của con gái ông. Không ai chối
cãi rằng bà Gillard đã nhiều lần thất hứa hay ngang nhiên nuốt lời đến độ được
tặng cho hỗn danh “Juliar” (Julia dối trá), nhưng trong những giờ phút đau
thương tột cùng khi phải chịu tang cha mà bị mang ra “chửi bới” như vậy thì quả
là một hành động xúc phạm không thể tha thứ được.
Tôi nghĩ sở dĩ thời
nào và ở đâu nhân loại cũng ý thức được nghĩa vụ phải tôn trọng người chết là bởi
vì người chết nào, bất luận ra đi trong hoàn cảnh nào, cũng đều muốn nhắn gởi một
thông điệp cho người còn sống. Dù không hề quen biết cô Jill Meagher, nhưng tại
Ái nhĩ lan cũng như ở Úc đại lợi này, có ai mà không mủi lòng xúc động khi hay
tin cô đã bị hãm hiếp và sát hại một cách dã man. Nhưng cái chết của người nữ
nhân viên của Đài ABC này không chỉ gợi lại sự thương cảm, xót xa mà còn tố cáo
bộ mặt của sự Dữ vốn vẫn còn ẩn hiện trong xã hội Úc ngày nay. Bày tỏ những
tình cảm cao đẹp nhứt với người đã ra đi, người Úc cũng không thể không nhìn
vào bóng tối của sự Dữ đang rình rập đâu đó.
Người ra đi một
cách tất tưởi có một thông điệp để nhắn gởi đã đành, mà thông điệp của người tự
nguyện nằm xuống lại càng rõ ràng hơn. Tôi vẫn còn nhớ dạo tháng 5 năm 1967, một
nữ phật tử tên là Phan Thị Mai, tự Nhất Chi Mai, đã tự tưới xăng lên người mình
và châm lửa tự thiêu trước sân chùa Từ Nghiêm, quận 10, Sài gòn. Trước khi tự thiêu,
người phụ nữ 33 tuổi này đã để lại 10 bức di thư với nội dung kêu gọi hòa bình
và chấm dứt chiến tranh. Chuyện bà đứng ở bên nào trong cuộc chiến để tự thiêu,
chỉ có lịch sử mới có thể phán xét. Nhưng ít nhứt bà đã để lại một câu nhớ đời.
Trong bài thơ có tựa đề “chấp tay tôi quỳ xuống”, Nhất Chi Mai viết: “Sống mình không thể nói, Chết mới được ra lời”.
“Chết
mới được ra lời”: đó cũng là mục đích của cuộc tự thiêu nổi tiếng của
Hòa Thượng Thích Quảng Đức để phản đối chính phủ của cố tổng thống Ngô Đình Diệm.
Động cơ, chủ đích, hoàn cảnh của cuộc tự thiêu chắc chắn còn nhiều bí ẩn cần được
lịch sử làm sáng tỏ. Nhưng xét về giá trị “thông điệp” thì cuộc tự thiêu này đã
thực sự tạo ra một chấn động mạnh chưa từng có. Tháng 6 năm 1963, liền sau khi
phóng viên Malcolm Browne gởi những bức hình của cuộc tự thiêu về Mỹ, cả Tòa Bạch
Ốc như bị rung chuyển. Sự thể cố tổng thống Ngô đình Diệm và ông cố vấn Ngô
đình Nhu, bào đệ của ông, bị thảm sát trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm
1963, tiếp theo là cuộc đổ quân ào ạt của người Mỹ vào Miền Nam Việt nam và cuối
cùng phần đất tự do của Việt nam rơi vào tay cộng sản năm 1975...trực tiếp hay
gián tiếp, tất cả đều xuất phát từ ngọn lửa bùng cháy lên trong cuộc tự thiêu ấy.
Hình ảnh và tiếng nói của sự chết quả là mãnh liệt! Người ta cũng đã thấy rõ
tác động của cái chết của người Việt cộng tên là Nguyễn văn Lém bị tướng Nguyễn
ngọc Loan xử bắn năm 1968. Người cộng quân này đã gây ra không biết bao nhiêu tội
ác trước đó. Nhưng chẳng có hình ảnh giết chóc nào của ông đã được ghi lại. Vậy
mà khi tướng Loan cầm súng lục xử bắn ông ngay giữa đường phố Sài gòn, hành động
này đã được ông Võ Sửu, một chuyên viên thu hình của Đài NBC và nhiếp ảnh gia
Eddie Adams của hãng thông tấn AP thu được. Thước phim và tấm hình lịch sử ấy
đã gây chấn động tại Hoa kỳ. Đây có lẽ là một trong những hình ảnh “định mệnh” ảnh
hưởng đến cuộc chiến tại Việt nam và vận mệnh của Miền Nam.
Thật ra, sự chết
chỉ có một tiếng nói mãnh liệt đối với những ai còn có một lương tâm có thể bị
cắn rứt mà thôi. Trái lại, khi lương tâm đã chai lì, thì một cái chết, dù có bi
thảm đến đâu, cũng chẳng có sức đánh động. Thế giới văn minh đã lên án tính man
rợ của 4 chiến binh Mỹ khi họ đứng “tè” lên xác chết của 3 người lính Taliban ở
Afghanistan. Nhưng có lẽ cũng man rợ không kém khi người ta nhân danh một luật
pháp hay đạo pháp nào đó để được tự do sát hại người vô tội. Thế giới vẫn còn đầy
dãy những người hoàn toàn câm điếc, đui mù trước cái chết của người vô tội.
Ngày 6 tháng 5 năm
1998, một người Pakistan, 66 tuổi, đã bước vào một tòa án tại tỉnh Punjab, đưa
súng lên đầu và bóp cò. Tên của người tự sát này là John Joseph, tổng giám mục
Faisalabab. Sở dĩ vị giám mục công giáo này đã làm hành động bất thường như thế
giữa tòa án là để gây sự chú ý của các quan tòa, mọi người dân Pakistan và cả
thế giới về điều được gọi là “luật chống phạm thượng”. Trong bao năm trời, vị
giám mục này đã tranh đấu để Pakistan bãi bỏ luật này. Ông đã mở chiến dịch vận
động để cứu những người như một thanh niên tên là Christian Ayub Masih, 27 tuổi,
bị kết án tử hình chỉ vì khuyến khích người khác đọc tác phẩm “The Satanic
Verses” (những vần thơ ác quỷ) của văn sĩ Salman Rushdie để hiểu rõ sự thật về
Hồi giáo.
Tổng giám mục John
Joseph đã không sống để thấy anh Masih được trả tự do vài năm sau đó. Nhưng cuộc
tự sát của vị tổng giám mục này đã không thay đổi được tình hình tại Pakistan.
Vẫn còn hàng ngàn người bị bắt giữ và kết án vì tội phạm thượng như báng bổ tiên tri Mahomet hay
xúc phạm đến Kinh Coran. Các thẩm phán nào tìm cách tha bổng cho những người bị
tố cáo cũng đều bị ám sát. Những người được tha bổng cũng bị các nhóm “nhân dân
tự phát” săn lùng và sát hại. Các chính trị gia nào tranh đấu để bãi bỏ luật chống
phạm thượng cũng đều bị mưu sát như trường hợp ông Salman Taseer, tỉnh trưởng tỉnh
Punjab hay ông Shabbaz Bhatti, bộ trưởng đặc trách các nhóm thiểu số.
Tháng trước, một
bé gái 14 tuổi mắc bệnh chậm trí (bệnh Down) đã bị bắt giữ vì bị tố cáo xé kinh
Coran. Một cuộc điều tra lại cho thấy chính một giáo sĩ hồi giáo đã dàn dựng
chuyện này để sát hại em. Những trường hợp lợi dụng luật chống phạm thượng để
giải quyết tranh chấp, tư thù hay để loại trừ các nhóm tôn giáo thiểu số vẫn tiếp
tục xảy ra như cơm bữa tại quốc gia hồi giáo này (x. The Australian,
26/9/2011).
Trong những ngày vừa
qua, ngoại trừ một nhóm người Lybia đã bày tỏ sự biết ơn và lòng cảm thương đối
với một người bạn đã từng ủng hộ và giúp đỡ họ lật đổ nhà độc tài Gaddhafi là đại
sứ Christopher Stevens, làn sóng những người hồi giáo quá khích trên khắp thế
giới biểu tình gây bạo động, khích động hận thù quả là chuyện buồn của thế kỷ!
Cuộc tự sát của tổng giám mục John Joseph ở Pakistan và cái chết thảm thương của
đại sứ Stevens tại Lybia xem ra vô ích, bởi vì với những lương tâm chai lì, những
cái chết như thế vẫn chưa thành “lời”.
Cái chết thành “lời” thế nào được với những người đã tự
bóp nghẹt tiếng nói lương tâm của mình như các nhà lãnh đạo độc tài trong suốt
dòng lịch sử nhân loại. Đối với những đồ tể như Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông,
Pol Pot...cả trăm triệu người vô tội có bị sát tế trong lò sát sinh, các quần đảo
Gulag, các trại tập trung hay các cánh đồng giết người cũng chẳng gây được một
sự xúc động nào. Nếu cách đây 2 ngàn năm, bạo chúa Nero đã có thể cười một cách
sung sướng khi nhìn cảnh thành Roma bị đốt cháy để có cớ bách hại các tín hữu
Kitô tiên khởi, Mao Trạch Đông cũng muốn “chứng
tỏ một trái tim sắt thép qua tất cả những hành động trong đời sống thường ngày,
theo gương những hoàng đế Trung Hoa tồi tệ nhất. Chẳng hạn như Trụ vương đời
nhà Thương, vị hôn quân thích trưng bày cái xác bị tùng xẻo của các nạn nhân, đổ
đầy rượu vào hồ bơi, có hàng ngàn nàng hầu vây quanh. Hoặc Tùy Dạng Đế (Sui
Yangdi), một trong những bạo chúa tệ hại nhất trong lịch sử Trung Hoa, đã bắt
những cô gái trẻ đẹp phải kéo thuyền rồng đi ngược gió bằng những giải lụa.
Một
bằng chứng cho thấy sự tàn bạo của Mao Trạch Đông, lịch sử đặc biệt ghi nhận
câu trả lời của ông ta với ông Nehru (thủ tướng Ấn độ): “Chúng tôi chẳng việc
gì phải sợ bom nguyên tử cả. Nếu ai tấn công tôi bằng bom nguyên tử, thì tôi có
thể trả đũa tương tự. Mười triệu hay hai chục triệu người chết cũng chẳng ăn nhằm
gì đối với chúng tôi”. Nehru không phải
từ bi hỉ xả gì, nhưng cũng phải dựng tóc gáy khi nghe câu nói của Mao, coi mạng
người như ngóe” (Mao Trạch Đông và hàng ngàn thê thiếp, Người sưu tầm,
Đàn Chim Việt online 30/9/12, trích từ “Tình dục, dối trá và chính trị” của
Pierre Lunel, NXB L’Archipel, Paris 2012).
Người cộng sản trước
sau vẫn thế. Nếu có một Đặng Tiểu Bình đã không tỏ ra chút cảm xúc, áy náy, xao
xuyến khi ra lệnh cho xe tăng ủi bừa vào các sinh viên biểu tình ôn hòa tại quảng
trường Thiên an Môn dạo đầu tháng 6 năm 1989, thì ngày nay các lãnh tụ cộng sản
thế hệ thứ 4, thứ 5 hay thứ mấy đi nữa của Trung cộng cũng vẫn trơ như đá trước
các cuộc tự thiêu của các tăng lữ hay tín đồ phật giáo Tây Tạng.
Với người cộng sản
Việt nam hiện nay cũng thế thôi. Mặc cho bà Đặng Thị Kim Liêng có tự thiêu để
phản đối việc giam giữ con gái bà là nhà bất đồng chính kiến Tạ Phong Tần, cái
chết ấy cũng sẽ mãi mãi là một tiếng kêu trong sa mạc và sa mạc ở mãi đâu đâu,
chớ không phải tại Việt nam. Chính những người vỗ ngự tự xưng là “lương tâm của
nhân loại” lại là những kẻ đã bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm để không còn phải
nghe thấy bất cứ một tiếng than thở khổ đau nào của người khác.
Như vậy, rõ ràng
tiếng nói của người chết luôn đáng được lắng nghe nhưng người sống có muốn lắng
nghe hay không thì còn tùy vào chính họ và cái xã hội đã tạo ra họ nữa.
Văn hào Pháp
Francois Rabelais vào thế kỷ 16 đã để lại một câu thường được các giáo sư Việt
nam mang ra làm đề tài nghị luận cho học sinh trung học ở Miền Nam trước năm
1975. Ông nói: “Tri thức không có lương
tâm chỉ là sự hủy hoại của tâm hồn” (Science sans conscience n’est que
ruine de l’âme). Trừ những người mắc bệnh tâm thần, tâm thần phân liệt hay
hoang tưởng như trường hợp Anders Behring Breivik, kẻ đã sát hại gần cả trăm
người Na uy vô tội dạo tháng 7 năm 2011 mà vẫn không tỏ ra chút hối hận nào, có
ai mà không được Thượng Đế phú bẩm cho một lương tâm để lắng nghe mệnh lệnh
“làm lành tránh dữ”. Có nhiều cái chết, nhưng cái chết của lương tâm vẫn là cái
chết đích thực và cuối cùng của con người. Cái chết ấy xảy đến khi, vì quyền lực,
tiền của, danh vọng...con người bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm để không còn
phải nghe thấy nỗi khổ đau của người đồng loại.