Chu Thập
22.9.17
Mới đây các cơ quan truyền thông thế giới có nhắc đến tên
của một người Nga đã từng cứu thế giới khỏi một cuộc Đệ tam Thế chiến. Người
Nga này là ông Stanislav Petrov, một
viên trung tá trong quân đội Liên Xô đã qua đời ngày 19 tháng Năm vừa qua tại một
vùng ngoại ô Thủ đô Mạc Tư Khoa.
Ngày 26 tháng Chín năm 1983, theo dõi trên đài Radar, ông
Petrov là người đã tận mắt chứng kiến việc
Hoa Kỳ cho phóng một hỏa tiễn vào Liên Xô. Đây là cao điểm của chiến tranh lạnh.
Một cuộc chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra bất cứ lúc nào và dĩ nhiên sẽ tiêu
diệt thế giới. Nhưng với tất cả sáng suốt và bình tĩnh, viên trung tá này nghi
ngờ rằng đây có thể chỉ là một báo động giả cho nên đã không báo cáo về tổng
hành dinh của trung tâm phòng không Liên Xô để từ đó các tướng lãnh sẽ tham khảo
ý kiến của tổng bí thư Yuri Andropov. Theo diễn tiến bình thường có thể dự đoán
được, chuyện Liên Xô cho “nhấn nút đỏ” để trả đũa và như vậy châm ngòi cho một thế chiến trong đó vũ khí nguyên tử chắc chắn
sẽ được mang ra sử dụng là điều khó tránh khỏi.
Cũng như cuộc khủng hoảng tại Cuba hồi năm 1962 đã không
dẫn đến một cuộc chiến tranh nguyên tử, hành động can đảm của Trung tá Petrov
đã ngăn chận được một Đệ tam Thế chiến. Tuy nhiên, dưới thời Liên Xô, hành động
của ông Petrov không bao giờ được tuyên dương. Mãi cho đến lúc Liên Xô tan rã,
chủ nghĩa cộng sản cáo chung tại chính cái nôi chào đời của nó và các tài liệu
quân sự được giải mã hồi năm 1998, người ta mới nhận ra được hành động anh hùng
của viên trung tá này. Ngay cả người vợ của ông Petrov là người đã qua đời năm
1997, cũng không hề biết được ông đã làm gì trong đêm 26 tháng Chín năm 1983.
Câu chuyện được giải mã của ông Petrov cho thấy: hôm đó đồng
hồ vừa điểm 12 giờ đêm khi ông ghi nhận được một tiếng động bất thường trên màn
ảnh Radar. Cùng với âm thanh này, máy vi tính của viên sĩ quan cũng nói với ông
rằng vật thể xuất hiện trên đài Radar chính là một hỏa tiễn của Hoa Kỳ đang hướng
thẳng về Liên Xô.
Vào thời điểm đó, bầu khí căng thẳng của chiến tranh lạnh
giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã đạt đến cao điểm. Hành động của viên trung tá 44 tuổi
này chỉ xảy ra 6 tháng sau khi Tổng thống Ronald Reagan vạch mặt chỉ tên Liên
Xô như một “đế quốc quỷ dữ” và chỉ mới 3 tháng sau khi các chiến đấu cơ của Nga
đã bắn hạ một phi cơ hàng không dân dụng
của Nam Hàn đang bay từ New York đến Alaska khiến cho tất cả 279 hành khách thiệt
mạng.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho hãng thông tấn RT của
Nga hồi năm 2010, ông Petrov kể lại: “Khi tôi vừa thấy báo động, tôi liền đứng
dậy khỏi ghế. Tất cả các binh sĩ thuộc cấp của tôi đều bấn loạn, cho nên tôi
yêu cầu họ đừng hoảng hốt. Tôi biết rằng quyết định của tôi sẽ có nhiều hậu quả”.
Liền sau đó, đài Radar do Trung tá Petrov điều khiển lại cung cấp thêm một tín hiệu
đáng sợ nữa: trên màn ảnh chính lại hiện lên dấu hiệu cho thấy có thêm 4 hỏa tiễn
nữa vừa mới được phóng đi.
Trung tá Petrov có 15 phút đồng hồ để quyết định liệu có
nên báo cáo về trung ương rằng kẻ thù không đội trời chung đã phóng hỏa tiễn có
mang đầu đạn nguyên tử không và liệu có nên yêu cầu trả đũa không. Nhưng ông đã
không làm quyết định đó vì nghĩ rằng nếu Hoa Kỳ có tấn công Liên Xô thì hẳn họ
đã bắn hàng loạt hỏa tiễn chứ không phải chỉ lẻ tẻ vài cái. Biết mình đã làm một
quyết định đúng đắn giúp tránh được một cuộc Đệ tam Thế chiến, Trung tá Petrov
đã ăn mừng bằng nửa lít rượu Vodka và ngủ vùi 28 tiếng đồng hồ liền.
Kể lại những giây phút quyết liệt và đầy thử thách đó,
ông Petrov nói rằng lúc đó chiếc ghế bành ông đang ngồi nóng lên như một chảo dầu
đang sôi và chân ông hoàn toàn bất động; ông cảm thấy mình không thể đứng dậy nổi
nữa.
Thật ra, như trong cuốn phim có tựa đề “The man who saved
the world” (người đã cứu thế giới) do tài tử gạo cội Kevin Costner thủ diễn và
được trình chiếu hồi năm 2004, tài liệu lịch sử cho thấy rằng vào thời điểm đó,
Hoa Kỳ không hề cho phóng đi bất cứ hỏa tiễn nào nhắm vào Liên Xô. Tất cả những
âm thanh và hình ảnh báo động mà Trung tá Petrov ghi nhận được trên màn ảnh Radar chỉ là những tia
sáng mặt trời phản chiếu xuyên qua các đám mây.
Sau khi Liên Xô sụp đổ và các tài liệu được giải mã, viên
trung tá hồi hưu của Nga đã được cả thế giới ca ngợi và trao tặng nhiều giải
thưởng. Ông Heidrun Hannusch, một viên chức của Hội đồng Giải Dresden Peace
Prize (Giải Hòa Bình Dresden) nói rằng hành động anh hùng của ông Stanislas
Petrov sẽ được lịch sử ghi nhớ như một trong những biến cố ý nghĩa nhứt của những
thập niên vừa qua trong việc bảo vệ hòa bình.
Trong khi cả thế
giới ca ngợi hành động anh hùng của ông Petrov thì Mạc Tư Khoa lại rất kiệm lời
đối với ông. Quân đội Nga vẫn cho rằng dù cho ông Petrov có “phát hiện” ra hỏa
tiễn của Mỹ trên màn ảnh Radar và có giải thích thế nào đi nữa, ông chẳng can dự
gì vào quyết định tự chế của trung ương lúc bấy giờ (x. https://www.washingtonpost.com/local/obituaries/stanislav-petrov-soviet-officer-credited-with-averting-nuclear-war-dies-at-77/2017/09/18 ).
Với cả thế giới, ông Petrov là một vị anh hùng đáng ca ngợi.
Nhưng tại Liên Xô và ngay cả tại Nga thời hậu cộng sản, ông vẫn mãi mãi là một
người vô danh. Cái chết của ông, cũng như hành động can đảm của ông, hầu như đã
không được nhắc đến.
Lịch sử thế giới thường được viết lên bằng vô số những
anh hùng vô danh như thế. Trong một số ra dạo tháng Hai vừa qua, báo The
Telegraph của Anh có liệt kê 5 vị anh hùng tuy không hề được nhắc đến, nhưng đã
thực sự góp phần hình thành lịch sử thế giới.
Trước hết có lẽ phải nhắc đến một người phụ nữ có tên là
Enheduanna. Người phụ nữ này là một thi sĩ Sumeri đã sống vào Thế kỷ thứ 23 trước
Công nguyên, tức cách đây trên 4000 năm. Theo các sử gia chính bà là người đầu
tiên đã viết lên những ca khúc và thánh thi mà sau này các tác giả Do Thái đã
đưa vào Kinh Thánh.
Vị anh hùng vô danh thứ hai được báo The Telegraph đề cao
là ông Thomas Clarkson, một người da đen đã có công trong việc tranh đấu để bãi
bỏ chế độ nô lệ. Nói đến việc Anh quốc bãi bỏ chế độ nô lệ, người ta thường chỉ
nhắc đến ông William Wilberforce. Thật ra ông Clarkson mới là linh hồn của cuộc
tranh đấu bãi bỏ chế độ nô lệ. Trong những năm trước khi việc buôn bán nô lệ bị
bãi bỏ, chính ông Clarkson là người đã thu thập bằng chứng cho thấy những điều
kiện dã man trong các chiếc tàu chở người nô lệ. Những lái buôn nô lệ đã tìm
cách ám sát ông và chận đứng chiến dịch của ông. Chỉ sau khi ông Clarkson vận động
được một số dân biểu trong Quốc hội Anh, lúc bấy giờ ông Wilberforce mới thực sự
dấn thân vào cuộc tranh đấu giải phóng người nô lệ. Dù vậy, sau khi ông
Wilberforce qua đời, công trạng của người da đen Clarkson không hề được nhắc đến.
Các con ông Wilberforce xem ông Clarkson chỉ như một thứ thư ký được cha họ
thuê đi thu thập bằng chứng mà thôi.
Nhưng có lẽ chẳng có vị anh hùng nào “vô danh” cho bằng
ông Tenzing Norgay, một người Nepal đã từng
sát cánh bên cạnh ông Edmund Hillary trong cuộc chinh phục đỉnh núi Everest
trong dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ngày 29 tháng Năm năm 1953, sau khi ông Hillary, một
người Tân Tây Lan và một người Anh lãnh đạo của cuộc thám hiểm là ông John Hunt
đã đặt chân đến đỉnh Everest, cả hai đều được trao tặng tước hiệu “hiệp sĩ”.
Còn ông Tenzin Norgay chỉ nhận được một huy chương danh dự. Chẳng ai nhắc đến
ông như một người đã hướng dẫn cuộc thám hiểm và đã đặt chân lên đỉnh Everest!
Nhưng số phận của một vị anh hùng vô danh khác là ông
Alan Turing lại còn tệ hơn. Alan Turing là một nhà toán học tài ba. Trong thời
Đệ nhị Thế chiến, ông là người đứng đầu một nhóm các chuyên gia đã chế tạo ra
máy Enigma. Đây là tiền thân của máy điện toán có khả năng giải mã được các tín
hiệu mật của Đức quốc xã. Phát minh của ông Turing đã giúp cho Anh quốc có thể
hiểu được chiến thuật của Đức, nhờ đó mà thế chiến đã kết thúc sớm hơn và hàng
triệu triệu người được cứu thoát. Nhưng sau chiến tranh, phát minh và chiến
công của ông Turing vẫn bị tiếp tục xếp vào loại “tuyệt mật”. Tệ hại hơn, năm
1952, ông Turing, vốn là một người đồng tính, đã bị kết án vì “tội công xúc tu sĩ”. Thay vì bị
giam vào tù, ông chấp nhận chịu thiến và năm 1954, đã tự vận. Mãi đến năm 2013,
nữ hoàng Elizabeth II mới hồi phục danh dự cho ông và nhìn nhận công trạng của
ông.
Vị anh hùng vô danh thứ năm được báo The Telegraph vinh
danh là ông Bayard Rustin. Ông này là một người Mỹ gốc Phi Châu đã từng mang lại
cảm hứng và hướng dẫn hầu hết những nhà lãnh đạo trong các phong trào tranh đấu
cho các quyền dân sự tại Hoa Kỳ, trong đó có cố Mục sư Martin Luther King. Lớn
lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng kinh tế tại Hoa Kỳ hồi thập niên 1930, ngay từ
lúc còn là một thanh niên, ông Rustin đã đứng lên tranh đấu để đòi hỏi quyền tự
do cho người da đen. Chính ông là người đã khởi xướng cuộc tranh đấu bất bạo động
tại Hoa Kỳ. 13 năm trước khi bà Rosa Park đã làm hành động thách thức khi ngồi
vào ghế xe buýt dành cho người da trắng, ông Rustin đã từng làm một hành động
như thế. Cảm hứng từ cuộc tranh đấu bất bạo động của Mahatma Gandhi, năm 1956,
ông Rustin đã thuyết phục Mục sư Martin Luther King rằng tranh đấu bất bạo động
là phương pháp duy nhứt để đạt được quyền bình đẳng. Khi phong trào lớn mạnh, một
đối thủ chính trị, vốn biết rõ khuynh hướng đồng tính của ông Rustin, đã đe dọa
tố cáo mối quan hệ của ông với lãnh tụ Martin Luther King. Để bảo vệ chính
nghĩa, ông Rustin đã rút lui vào bóng tối và trở thành một người hoàn toàn vô
danh trong cuộc tranh đấu bất bạo động cho quyền bình đẳng của người da đen tại
Hoa Kỳ.
Ít ra cuối cùng tên tuổi và sự nghiệp của 5 con người lỗi
lạc trên đây cũng đã được biết đến. Nhưng lịch sử của thế giới không chỉ được
viết lên bằng tên tuổi của những người như thế, mà bởi vô số những anh hùng vô
danh thực sự mà tên tuổi không bao giờ được nhắc đến. Vào lúc này đây, tôi nghĩ
đến vô số những anh hùng như thế trong các thảm họa xảy ra trên thế giới, nhứt
là những thiên tai như bão lục và động đất mới đây. Chỉ có một số rất ít được
nhắc nhớ. Tuyệt đại đa số vẫn là những người vô danh. Chính họ mới là những người
anh hùng đích thực. Họ sống và làm điều mà lương tâm và lý trí mách bảo phải
làm mà không màng đến danh vọng, tiếng tăm hay bất cứ một phần thưởng nào. Hòa
bình thế giới không chỉ đến từ bàn hội nghị của các nhà lãnh đạo thế giới. Hòa
bình thế giới cũng chẳng đến từ một số ít những người được trao Giải Nobel Hòa
Bình, mà chính nhờ vô số những người một cách âm thầm cố gắng sống tình người,
mối giây liên đới, sự cảm thông và hy sinh quên mình cho người đồng loại. Xét
cho cùng, chính lúc cố gắng làm người tử tế, con người thực sự trở thành anh
hùng.