Chu Thập
20/11/14
Trong ba nhà lãnh đạo tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G20 và
nán ở lại Úc Đại Lợi để được trải thảm đỏ và đọc diễn văn tại Quốc hội Liên
bang là nữ thủ tướng Đức Angela Markel, thủ tướng Ấn độ Narendra Modi và chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình, một người Việt tỵ nạn như tôi dĩ nhiên chỉ chú ý đến
nhà lãnh đạo Trung Quốc, người lúc nào cũng nở nụ cười “Mona Lisa” này. Có lẽ
các nhà lãnh đạo chính trị Úc cũng đã dành cho ông một sự nghênh đón nồng nhiệt
hơn bất cứ lãnh tụ nào, bởi vì Úc Đại Lợi vừa ký kết được với Trung Quốc một Thỏa
ước Mậu dịch Tự do mà chính phủ Úc hy vọng sẽ mở ra một chân trời sáng lạn cho
kinh tế Úc.
Có lẽ hãnh diện vì đạt được một thỏa ước đầy hứa hẹn như
thế chăng mà thủ tướng Tony Abbott đã đưa Trung Quốc và cá nhân Chủ tịch Tập Cận
Bình lên chín tầng mây. Trong bài diễn văn chào mừng nhà lãnh đạo Trung Quốc của
Thủ tướng Abbott , tôi đặc biệt nhớ câu: “Chúng ta đầu tư (=làm ăn) với những
người chúng ta tin tưởng”. Tôi nghĩ thầm trong bụng: để chờ xem Úc Đại Lợi sẽ
tin tưởng người khổng lồ cộng sản này được bao lâu!
Về phần mình, trong bài diễn văn đọc tại Quốc hội Liên
bang Úc chiều thứ Hai 17 tháng 11 vừa qua, chủ tịch Tập Cận Bình cũng nói một
câu mà tôi tin chắc là những người Việt tỵ nạn tập trung trước tòa nhà Quốc hội
ở Canberra để phản đối Trung Quốc hẳn không thể nghe “lọt tai” được. Ông nói rằng:
“một bầu khí quốc nội hài hòa và ổn định và một bầu khí quốc tế hòa bình là điều
mà Trung Quốc cần nhứt”. Một người Việt Nam như tôi và tôi cũng nghĩ rằng hầu hết
người dân tại các nước có lãnh hải bị Trung Quốc ngang nhiên đem quân xâm chiếm,
còn lâu mới tin rằng quốc gia cộng sản khổng lồ này muốn thấy một “bầu khí quốc
tế hòa bình”. “Hòa Bình” mà ông Tập Cận Bình cho là thứ mà Trung Quốc đang cần
nhứt có khác gì thứ “Hòa Bình La Mã” (Pax Romana) do hoàng đế La Mã Augustus
thiết lập và áp đặt lên các nước đang bị đế quốc thống trị vào thế kỷ thứ nhứt
và thứ hai sau Công Nguyên. Đó là thứ “hòa bình” mà Liên Xô và Trung Cộng cũng đã
từng hô hào qua không biết bao nhiêu hội nghị hòa bình và trước năm 1975, tôi
thường nghe người cộng sản Miền Bắc “nhảy múa” ca ngợi qua vũ điệu “hòa bình”.
Quen thói nhìn người theo lối “trông mặt mà bắt hình dong”,
tôi thấy mình đã hoàn toàn sai lầm khi dành cho ông chủ tịch có nụ cười không để
hở hàm răng này cảm tình và những ý nghĩ cao quý nhứt. Một con người lúc nào
cũng mỉm cười lẽ nào lại không là một con người hiền hòa nhân ái, chỉ biết tưởng
nghĩ đến hòa bình và hạnh phúc của người khác. Nhưng tôi đã lầm. Tôi không biết
ai đó có hối tiếc không khi nghĩ rằng chủ tịch Tập Cận Bình sẽ là một Mikhail
Gorbachev của Trung Quốc.
Tôi đã lầm. Đàng sau nụ cười hiền hòa nhân ái ấy là cả một
tham vọng ngất trời kèm với những chủ trương mà một người bình thường khó có thể
gọi là “hòa bình” hay “hiếu hòa” được.
Tạp chí Time, số ra ngày 17 tháng 11 vừa qua đã cho tôi
nhìn thấy con người thật của ông Tập Cận Bình. Theo tạp chí này, hồi năm ngoái,
ông đã nhắc lại cho các đảng viên cộng sản Trung Quốc một số điều lệ trong đó ông
chỉ ra 7 giá trị và định chế của Tây Phương mà Trung Quốc phải triệt hạ bằng mọi
giá. Trong số những giá trị và định chế của Tây Phương mà ông Tập Cận Bình yêu
cầu phải chống lại, đáng kể nhứt là dân chủ, tính độc lập của các cơ quan truyền
thông, xã hội dân sự và thị trường tự do. Ngay cả những “giá trị phổ cập” như
nhân quyền cũng bị lãnh tụ có nụ cười hiền hòa này xem như không phù hợp với xã
hội Trung Hoa. Thay vào đó, ông đặt Đảng Cộng Sản Trung Quốc lên trên mọi định
chế khác, kể cả các tòa án và hiến pháp.
Kể từ khi con người luôn mỉm cười này lên cai trị quốc
gia chiếm tới 1 phần 5 dân số thế giới, hàng trăm người nào dám lên tiếng đặt lại vấn đề về “lẽ khôn ngoan” của
Đảng, đều bị giam giữ mà không thông qua bất cứ một thủ tục tư pháp nào. Hơn ai
hết, chủ tịch Tập Cận Bình đã siết chặt việc kiểm soát việc xử dụng Internet, bịt
miệng ngay cả những nịnh thần chuyên ca như vẹt về công cuộc cải tổ của Đảng. Tại
Hong Kong, qua cuộc biểu tình đòi tự do bầu cử của sinh viên hồi tháng trước,
người ta thấy Bắc Kinh đã không để lộ bất cứ dấu hiệu nào cho biết sẵn sàng lắng
nghe những nguyện vọng chính đáng của người dân đã từng sinh ra và lớn lên tại
nhượng địa Anh Quốc này.
Theo tạp chí Time, việc đàn áp những người bất đồng chính
kiến đã đạt đến những tỷ lệ khác thường. Trong tháng trước chẳng hạn, an ninh
Trung Quốc đã bắt nhốt hàng tá nghệ sĩ thường tập trung ở một khu ngoại ô Bắc
Kinh. Một số bị bắt đem đi vì cho phát tán những bài bình luận về cuộc biểu
tình đòi dân chủ tại Hong Kong. Một số khác bị giữ khi tập trung lại để chỉ nghe đọc thơ. Những
người tìm cách giúp đỡ các gia đình của những người bị bắt giữ cũng bị lùa đi.
Một nghệ sĩ đã nói với phóng viên Hannah Beech của tạp chí Time rằng những người
bị bắt giữ “không hề muốn “tử đạo”. Không một người nào trong họ tìm cách tổ chức
một cuộc nổi loạn nào cả. Họ chỉ muốn bày tỏ ý kiến mà thôi”.
Chỉ mới bày tỏ ý kiến thôi mà đã gặp rắc rối như thế, huống
chi tìm cách “nổi loạn”. Phóng viên
Hannah Beech viết rằng với Chủ tịch Tập Cận Bình, “quyền tự do ngôn luận và tranh luận là những “bất
bình đẳng” của Tây Phương mà Đảng cộng sản cần phải đề phòng nếu muốn tránh số
phận của cựu Liên Xô”. Trong một bài diễn văn đọc trước các đảng viên dạo tháng
12 năm 2012, Chủ tịch Tập Cận Bình cho rằng “lý do quan trọng nhứt cho thấy tại
sao Đảng cộng sản Liên Xô sụp đổ là vì những lý tưởng và niềm tin của họ bị
lung lay”.
Theo nhận định của tạp chí Time, mặc dù thân phụ mình đã
từng bị đồ tể Mao Trạch Đông thanh trừng và bản thân ông, lúc còn là một thanh
niên, đã từng bị đày về thôn quê để sống lam lũ cơ cực, ông Tập Cận Bình lại là
một người bảo thủ, luôn trung thành với lý tưởng “độc tài” và tàn bạo của chủ
nghĩa cộng sản. Nhưng “bảo thủ” có lẽ chỉ là bình phong che đậy điều mà ông gọi
là “giấc mơ Trung Quốc”, tức một “siêu cường” bá chủ thế giới. Chỉ dưới thời của
ông, thế giới mới thấy số thông hành của Trung Quốc có in bản đồ hình “lưỡi bò”
liếm hầu hết lãnh hải và hải đảo của các nước Biển Đông. Jerry Hendrix, một cựu
sĩ quan hải quân Mỹ hồi hưu và hiện đang là một phân tách gia về Á Châu, cho rằng
tham vọng của ông Tập Cận Bình là đặt Trung Quốc vào trung tâm thế giới, tức trở
lại ý nghĩa đích thực của hai chữ “Trung Hoa” và vị trí của ông cũng sẽ là
trung tâm của thế giới ấy. Kề từ sau Mao Trạch Đông, chưa có lãnh tụ Trung Quốc
nào có một địa vị “trung tâm” như ông Tập Cận Bình. Thay vì chia sẻ trách nhiệm
với 7 thành viên của Bộ Chính Trị, ông trực tiếp nắm quyền điều khiển mọi ủy
ban về an ninh quốc gia, kiểm duyệt, Internet, tái cấu trúc quân đội, chính
sách ngoại giao và ngay cả cải tổ kinh tế.
Không biết có phải do “học tập theo gương đạo đức của Bác
Hồ” vĩ đại của đàn em cộng sản Việt Nam không, ông Tập Cận Bình rất thích được dân chúng xưng gọi là “Xi Dada”,
nghĩa là “Bác Tập”. “Bác Tập” lúc nào cũng cố gắng biểu lộ hình ảnh của một con
người bình dân, “hiền lành”, “dễ thương, dễ mến”, gần gũi với dân chúng. Thực
ra, ông có thua gì “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao” đâu. Xét cho cùng, trong thế
giới cộng sản, “Bác” nào cũng đều là “Bác” cả: “Bác” nào cũng “khiêm tốn nhường
ấy”; “Bác” nào cũng dễ thương nhường ấy, nhưng “Bác” nào cũng ôm mộng bá quyền,
đạp lên đầu lên cổ nhân dân và dĩ nhiên giết người thì chẳng gớm tay. Cuốn “Hắc
thư của Chủ nghĩa Cộng sản” ( Le livre noir du communisme) do một số cựu đảng
viên cộng sản Pháp biên soạn và được nhà xuất bản Éditions Robert Laffont phổ
biến năm 1997 đã ghi lại vô số hành động tội ác, khủng bố và đàn áp của tất cả các
chế độ cộng sản trên thế giới kể từ sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917. Đã từng là
nạn nhân của chủ nghĩa này, ông Tập Cận Bình hẳn đã biết quá rõ chính đồ tể Mao
Trạch Đông đã sát hại trên dưới 36 triệu đồng bào ruột thịt của mình.
Tôi vẫn cứ thắc mắc: một người đã từng là nạn nhân của chế
độ cộng sản, lại từng được tu nghiệp bên Mỹ một thời gian, vẫn chưa chịu mở mắt
mà lại cố bám vào cái thây chết vốn đã bị thế giới quăng vào sọt rác của lịch sử.
Tôi nghĩ chỉ có tham vọng quyền bính mới có thể giải thích được tại sao vẫn còn
có nhiều người chạy theo thứ chủ nghĩa đồi bại này.
Dĩ nhiên, chủ nghĩa tự nó đồi bại thì những người cố bám
vào nó cũng đồi bại thôi. Chẳng có người cộng sản nào mà không dối trá. Chẳng
có người cộng sản nào mà không độc ác. Nụ cười hiền hòa nhân ái trên gương mặt
của ông Tập Cận Bình đã không thể che dấu được bản chất cộng sản ấy. Trong bài
diễn văn đọc trước Quốc hội Liên bang, ông có trích dẫn câu nói quen thuộc của
người Úc “Hãy nhìn lên mặt trời và bạn sẽ không còn thấy bóng tối” (keep your
eyes on the sun anh you will not see the shadows) để kêu gọi tôn trọng những
khác biệt của Trung Quốc và Úc Đại Lợi về lịch sử, văn hóa, hệ thống xã hội và
trình độ phát triển. Dĩ nhiên, khác biệt về lịch sử, văn hóa, tôn giáo...là điều
cần được tôn trọng. Nhưng không thể gọi những chà đạp và vi phạm nhân quyền
cũng như tội ác là những khác biệt cần phải tôn trọng. Con người, ở đâu và thời
nào, cũng đều giống nhau ở một số điểm căn bản như: muốn được người khác tôn trọng,
muốn được suy nghĩ bằng cái đầu của mình, muốn được tự do, nhứt là tự do tư tưởng
và ngôn luận...Xúc phạm đến phẩm giá con người, thì ở đâu và thời đại nào cũng
đều đáng bị lên án cả. Nụ cười thân thiện và “hiền lành dễ thương” của ông Tập
Cận Bình chắc chắn không thể khỏa lấp được bất cứ tội ác nào mà chế độ do ông
lãnh đạo đã và đang làm đối với chính người dân của ông cũng như vô số nạn nhân
khác trên khắp thế giới.
Trên bàn làm việc trước mặt tôi là nụ cười của Đức
Phanxicô, nhà lãnh đạo tinh thần của trên một tỷ người công giáo và của Đức Đạt
Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng. Tôi tin chắc rằng
hai nụ cười này chỉ có thể là biểu hiện của chân thật, từ bi, nhân ái, hiền lành và cảm thông mà
thôi. Như nhạc sĩ Nam Lộc đã khuyên, “hãy mỉm cười với cuộc sống” và với mọi
người, tôi mong cũng luôn được mỉm cười với tất cả tấm lòng chân thật như hai
nhà lãnh đạo tinh thần trên đây, bởi lẽ không gì bỉ ổi bằng dùng nụ cười để che
đậy “ý đồ” đen tối và gian ác của mình.