Chu Thập
24.10.14
Gần đây, tôi thường đến thăm gia đình một người bạn. Gặp
nhau là để hàn huyên, chia sẻ những vui buồn và khắc khoải mà ở vào giai đoạn
nào trong cuộc sống ai cũng có lúc phải trải qua. Nhưng với riêng tôi, động lực
thúc đẩy tôi hăm hở tìm đến gia đình người bạn chính là cô cháu ngoại một tuổi
đang được bà ngoại trông coi. Niềm vui của tôi sẽ không trọn vẹn nếu một lần viếng
thăm gia đình người bạn mà không được gặp lại cô bé một tuổi ấy. Tôi vẫn gọi
cháu là công chúa. Thật ra phải gọi cháu là thiên thần mới đúng. Tôi không biết
72 cô trinh nữ được hứa hẹn cho các thánh tử đạo Hồi giáo đẹp cỡ nào. Tôi cũng
chưa từng thấy một thiên thần bằng da bằng thịt nào. Cùng lắm, trong các nhà thờ
ở các nước Tây Phương, người ta thường cho các thiên thần trẻ con da trắng có
cánh bay lượn trên vòm. Nhưng với tôi, đã là trẻ thơ thì bất luận thuộc màu da
nào, bất luận lành lặn hay đui mù sứt mẻ, đứa trẻ nào cũng đều là thiên thần cả.
Trẻ thơ là thiên thần bởi vì trẻ thơ đẹp từ trong ra ngoài.
Tôi thường có ý nghĩ ấy mỗi lần ngồi nhìn ngắm cô cháu
ngoại của gia đình người bạn. Cử chỉ và động tác nào của cháu, kể cả tiếng
khóc, cũng đẹp. Văn hào Victor Hugo của Pháp (1802-1885) hẳn đã trải qua vô số
giây phút ngồi ngắm say sưa trẻ thơ mới cảm nghiệm được rằng không gì buồn thảm
cho bằng một gia đình không có tiếng cười và tiếng khóc của trẻ thơ. Tôi hiểu
được tại sao tôi thèm thứ âm thanh kỳ diệu ấy. Nhưng đẹp nhứt có lẽ là lúc
thiên thần của tôi ngồi xem phim hoạt hình trên truyền hình. Đôi mắt thiên thần
linh động theo từng diễn tiến trong phim. Có lúc thiên thần “bình luận” bằng một
giọng nói mà có lẽ chỉ có Đức Chúa Trời mới hiểu được. Có lúc thiên thần lại cười
nắc nẻ như thể ngộ ra được một chân lý nào đó. Tôi tin chắc rằng thiên thần của
tôi cũng có những cảm xúc vui buồn được diễn tả một cách sống động qua ánh mắt.
Đây là điều mà chính tôi cảm nhận được mỗi khi từ giã để ra về: thiên thần nhìn
theo với ánh mắt mà tôi chỉ có thể nói là “bịn rịn” hoặc một cảm xúc thật sâu
xa hoàn toàn vượt qua mọi cố gắng diễn tả bằng ngôn ngữ của tôi. Có lẽ văn hào
Victor Hugo đã diễn tả được điều đó khi ông viết trong bài thơ “Trẻ thơ” (L’enfant):
“Tất cả bầu trời thăm thẳm nằm trong con mắt ấy” (toute la profondeur du ciel
est dans cet oeil). Có lẽ ánh mắt thiên thần ấy cứ dõi theo tôi, thúc bách tôi
trở lại thăm gia đình người bạn và tìm về tuổi thơ của mình.
Tôi vẫn luôn tự hào rằng mình có một tuổi thơ đẹp. Đẹp vì
chẳng ăn nhập gì với sự giàu sang và cuộc sống đầy tiện nghi vật chất như trẻ
thơ ngày nay đang hưởng thụ một cách thừa mứa. Tuổi thơ của tôi đẹp vì không những
không ngập ngụa trong giàu sang phú quý, mà cũng chẳng bị vẩn đục vì bất cứ một
ý thức hệ nào. Tuổi thơ của tôi đẹp đến độ ở bất cứ giai đoạn trưởng thành nào
trong cuộc sống và nhứt là ngày nay khi đã “luống tuổi”, lúc nào tôi cũng ngoái
cổ nhìn lại. Mà có riêng gì tôi đâu. Có tác giả viết hồi ký nào mà không dành một
phần quan trọng trong tác phẩm của mình để viết và nhớ về tuổi thơ?
Cụ Trần Đĩnh, tác giả của quyển hồi ký “Đèn Cù”, không nằm
ở ngoại lệ. Chương nào trong cuốn sách của cụ cũng đều đáng đọc. Người viết tạp
ghi Huy Phương của báo Người Việt đặc biệt chú ý đến chương cụ Trần Đĩnh viết về
ngày “giải phóng”. Theo tác giả Huy Phương, chỉ cần đọc chương này cũng đủ để
biết về con người đã từng viết hồi ký cho không biết bao nhiêu nhân vật cộng sản
nổi tiếng ngoài Bắc, kể cả ông Hồ Chí Minh. Nhưng với tôi, chương cụ Trần Đĩnh
dành cho tuổi thơ của cụ cũng có ý nghĩa không kém.
Theo cụ “nguồn sức
mạnh phi thường của ta thường đẻ ra trong đơn độc, những điều ta đơn độc trải một
mình từ rất sớm và bị lấp vùi nhưng rồi thình lình từ trong vô thức mù mờ bỗng
chớp nhoáng nhoi lên làm vị cố vấn ẩn mặt”. “Từ rất sớm” là lúc ngay cả
chưa có trí khôn. Cụ kể lại rằng năm lên 4 tuổi, cụ được bà nội bế đi xem hội
đình chiến vào ngày 11 tháng 11 với nhiều trò chơi như nhảy bị, bịt mắt bắt vịt,
leo cột mỡ. Nhưng dọc đường cậu bé 4 tuổi cảm thấy đau bụng, “đòi ị”. Thế là bà
nội liền dắt cậu bé đến một bờ sông, rồi dùng váy của bà để che chắn cho cậu được
kín đáo giải quyết vấn đề. Không có giấy vệ sinh, bà liền “vén vạt chiếc áo kép
lên, xé một mẩu lót màu xanh nhạt có những bông hoa to mờ để chùi” cho cậu. Cụ ghi
lại phản ứng của mình: “Tôi đòi về ngay sau đó. Trước hết để bà đỡ bận vì tôi,
sau để bù vào chỗ hụt trên áo bà. Cùng lúc, vô thức tôi chắc đã lờ mờ ghi lại rằng
từ nay các cuộc vui không phải là chỗ của tôi”.
4 tuổi đã cảm nhận được tấm lòng hy sinh của người khác
và chấp nhận hy sinh để không làm phiền người khác, 7 hay 8 tuổi, cụ Trần Đĩnh
lại tiến thêm một bước nữa trong sự hình thành nhân cách khi biết thế nào là hối
hận. Số là có một người chú họ từ dưới quê lên Hà Nội nhờ cậu bé dẫn đến Sở mộ
phu đi làm việc ở Tân thế giới. Người chú cho một xu và dặn chớ nói với ai rằng
chú đi đâu. Vài ngày sau, bố chú ở quê lên, khóc thảm thiết vì mất con. Cậu bé
7, 8 tuổi cảm thấy hối hận vì đã góp phần vào sự ra đi của ông chú họ. Cụ viết:
“Tuổi thơ không thích đen tối...”
Chừng hai năm sau, tức lúc cụ được 9 tuổi, lại xảy ra một
chuyện mà cụ cứ cam kết giữ kín cho đến ngày nay. Theo cụ kể, một buổi tối nọ,
trong khi chơi trò cút bắt trên vỉa hè, cụ bị một cô gái 12 tuổi kéo vào một góc
buồng và bày trò chơi thám hiểm trên thân thể cô. Cụ kể: “Tôi vừa sợ vừa thích
vừa xấu hổ vừa tò mò muốn tìm tới nữa”, nhưng rồi dừng lại và bỏ chạy...và “giữ
kín cho tới bây giờ”.
Tác giả “Đèn Cù” viết về những giây phút ấy như sau: “Những ánh lửa nhỏ bé lụn vụn như thế thường
ẩn kín ở một nơi sâu thẳm nào rồi tình cờ một hôm, chúng, những ngọn đèn tiền
trạm khiêm nhường, vụt thắp lên cho ta nhận ra chỗ đặt chân. Chỗ là gồm cả đúng
lẫn sai”. Tựu trung, với cụ Trần Đĩnh, lương tâm của cụ đã thức dậy ngay “từ
rất sớm” và đã hướng dẫn hay đúng hơn dõi bước theo cụ trong sự chọn lựa sai lầm
khi chạy theo chủ nghĩa cộng sản. Chính lương tâm đã thức dậy ngay từ tuổi thơ ấy
đã giúp cụ nhận ra được bộ mặt dối trá, tàn bạo và độc ác của ý thức hệ cộng sản
như được Mao Trạch Đông và những người mà cụ gọi là “Mao nhều” tuyên xưng và áp
dụng.
Đề cao lương tâm, cụ Trần Đĩnh đã tỏ ra rất chân thành
khi ca ngợi một đảng viên gạo cội là ông Nguyễn Trung Thành. Như chính nhà báo
Bùi Tín, người đã từng ở trong lòng Đảng, xác nhận, Nguyễn Trung Thành là “nhân
vật nắm trọn hồ sơ của 36 người dính vào vụ án “Xét lại chống Đảng” hồi thập
niên 1960. Năm 1990, sau khi về hưu, đọc lại toàn bộ hồ sơ của các vụ án, ông mới
nhận ra sự sai lầm của bản thân, vì đã mù quáng a dua theo định kiến của cấp
trên là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Ông liền viết thư gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười để
vạch ra những sai lầm trong vụ án. Hành động này đã dẫn đến những trù dập dã
man mà cá nhân ông phải gánh chịu. Ông tâm sự với cụ Trần Đĩnh rằng vì lương
tâm ông đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả bị khai trừ ra khỏi đảng, bị trả thù
cay độc, bị tước mọi lời khen thưởng, bị ngưng hưu bổng và sống trong cô đơn
cho đến ngày nay.
Lương tâm chính là nguồn sức mạnh của con người. Một tỉnh
ủy viên Hải Dương đã có nhận xét rất chính xác về sức mạnh của cụ Trần Đĩnh khi
ông nói: “Qua ông, tôi thấy ra rằng khi ta không sợ thì người sợ ta”. Tôi nghĩ
đến sức mạnh của người thanh niên ốm o mảnh khảnh người HongKong tên là Joshua
Wong Chi Fong (Hoàng Chí Phong). Người sinh viên vừa mừng sinh nhựt 18 này đã
làm rung chuyển cả thế giới. Người khổng lồ Goliat chỉ biết có sức mạnh từ lò
thuốc súng hẳn đã lo sợ trước sức mạnh của “David” nhỏ bé này. Sức mạnh mà người
thanh niên Hoàng Chí Phong đã có được hẳn phải xuất phát từ một lương tâm trong
sạch, ngay lành đã được nhào nặn ngay từ tuổi thơ. Một chi tiết nhỏ trong “tiểu
sử” của người thanh niên này cho biết: năm lên 6, 7 tuổi, anh thường được cha
là một tín hữu Kitô đưa đi thăm những người nghèo khổ, thiếu ăn, những người bị
đẩy ra bên lề xã hội. Có lẽ cũng như cụ Trần Đĩnh là người ngay từ thuở bé đã
được cha dẫn giải về chủ trương tranh đấu bất bạo động của Mahatma Gandhi, chỉ
mới 6,7 tuổi, người thanh niên lãnh đạo cuộc tranh đấu cho dân chủ và tự do này
hẳn cũng đã trang bị cho mình một sức mạnh đủ để anh dám đứng lên hô hào và tổ
chức cuộc đối đầu với Trung Quốc.
Cuộc sống của tôi chưa có đủ bề dày như cụ Trần Đĩnh để
viết hồi ký và ghi lại “những ánh lửa lụn vụn nhỏ bé” của tuổi thơ. Tôi cũng chẳng
có đủ sức mạnh của người thanh niên Hoàng Chí Phong mà chắc chắn lương tâm được
nhào nặn ngay từ tuổi thơ đã hướng dẫn vào cuộc chiến đấu dũng cảm. Nhưng tôi
cũng đã có một tuổi thơ đẹp và tuổi thơ ấy đã hình thành nên con người ngày nay
của tôi. Đẹp không phải vì tôi đã được cha mẹ dạy dỗ uốn nắn cho nên người tử tế
ngay từ thuở bé, mà vì tuổi thơ đã ghi khắc vào tâm trí tôi những giá trị cao đẹp
nhứt của cuộc sống. Ở tuổi thơ, tôi đã từng biết khóc. Nhưng tôi cười nhiều hơn
khóc. Ngày nay, mỗi khi nhìn các trẻ thơ trong các trại tỵ nạn trên khắp thế giới,
tôi cũng nhận ra nụ cười ấy. Người lớn lo toan vì bao nhiêu khó khăn hay bế tắc
của cuộc sống. Trẻ em thì trái lại, trong hoàn cảnh nào cũng có thể vui chơi và
cười đùa. Người lớn có thể bị căng thẳng vì bao nhiêu vấn đề và sức ép của cuộc
sống. Trẻ em thì trái lại vẫn có thể lướt qua những tiểu tiết trong cuộc sống để
chỉ tập trung vào giây phút hiện tại và đeo đuổi một mục đích duy nhứt là vui sống.
Ngoài ra, một trong những bài học hữu ích mà người lớn cần học hỏi nơi trẻ em
là dễ dàng kết bạn. Trẻ con không biết kỳ thị chủng tộc hay bất cứ vì lý do
nào. Trẻ con không thích tạo ra rào cản giữa người với người và cũng chẳng màng
đến chuyện người ta nghĩ gì về mình. Với trẻ con chi có một điều quan trọng là
thiết lập quan hệ với người khác để vui chơi. Trong thế giới của trẻ thơ không
hề có chiến tranh, ngoại trừ khi người lớn can thiệp vào để đầu độc chúng.
Nhưng quan trọng hơn cả, trẻ em dạy cho tôi luôn biết ngạc
nhiên và ngây ngất trước cuộc sống. Tôi tin rằng con người sẽ vui vẻ, lạc quan
và yêu đời hơn nếu nhìn vào cuộc sống bằng ánh mắt của trẻ thơ để không ngừng
thắc mắc và khám phá.
Mục đích của cuộc sống, xét cho cùng, có khi không phải
là lớn lên với những lo toan và đau buồn, mà chính là hành trình trở về tuổi
thơ để sống hồn nhiên và an lạc. Đó là ý tưởng mà cô cháu ngoại một tuổi trong
gia đình bạn tôi thường gợi lên cho tôi.