Chu Thập
22.1.13
Mỗi dịp Quốc
Khánh, Úc đại lợi lại vinh danh một số người có công với đất nước. Năm nay,
trong danh sách những người được vinh dự ấy có hai lực sĩ. Trong 40 năm qua, kể
từ khi tước hiệu “Người Úc của năm” được trao tặng, chỉ có 3 người thuộc giới
thể thao được vinh dự này. Năm 2008, Bart Cummings, nhà huấn luyện ngựa đua, được
chọn làm người Úc của năm. Trước đó, vào năm 1987 và năm 1998, được trao tặng
tước hiệu này là hai thủ quân của đội tuyển Cricket.
Người được vinh
danh là “người Úc của năm 2012” nhân dịp lễ quốc khánh năm nay cũng là một thủ
quân đội Cricket, ông Michael Clarke. Trong suốt năm 2012, tuyển thủ của môn thể
thao được ưa chuộng nhứt của người dân Miệt Dưới này đã phải mang lấy trên vai
tất cả gánh nặng của danh dự quốc gia và ông đã hoàn thành trách nhiệm của mình
một cách tốt đẹp cũng như mang lại nhiều hy vọng cho quốc gia trong những cuộc
tranh tài trong năm nay. Nhưng đáng chú ý hơn có lẽ là tên tuổi của cô Sally Pearson,
người nữ lực sĩ đầu tiên của Úc được trao tặng tước hiệu “Người Úc của năm”. Cô
Pearson quả xứng đáng để nhận tước hiệu này: tên tuổi của cô và cùng với cô, quốc
kỳ và quốc ca Úc đại lợi đã trổi lên tại Thế vận hội mùa hè London dạo tháng 8
năm vừa qua khi cô dành được huy chương vàng về môn chạy nước rút 100 thước. Điểm
nổi bật đáng được đề cao nơi người nữ vận động viên này là cô đã chia sẻ niềm
vui chiến thắng của mình với tất cả sự nhún nhường và khiêm tốn. Qua thành tích
cá nhân của mình, cô đã chứng tỏ rằng lực sĩ là người có thể sống tinh thần quảng
đại. Và đây có lẽ là lý do khiến cô được chọn làm người của năm. Thua không nản
mà thắng không kiêu. Đó mới thực sự là niềm cảm hứng mà các lực sĩ có thể mang
lại cho mọi người dân của đất nước mà mình đại diện, nhứt là giới trẻ. Về điểm
này, Sir Donald George Bradman (1908-2001), một trong những tuyển thủ Cricket nổi
tiếng nhứt của Úc, khi nói về vai trò của các lực sĩ trong Cuộc Đại khủng hoảng
kinh tế thế giới hồi thập niên 1930, đã có lý để vinh danh các cầu thủ thể thao.
Ông nói rằng những thành tích của họ đã “giúp vực dậy tinh thần dân tộc trong một
giai đoạn vô định về chính trị và kinh tế” (x.The Weekend Australian,
Editorial, 19-20/1/2013).
Thể thao đề cao những
giá trị vốn cần thiết cho cuộc sống xã hội cho nên thật là hợp lý khi vinh danh
những nhân vật thể thao hàng đầu của đất nước để khơi dậy niềm cảm hứng cho người
dân, nhứt là giới trẻ. Sự kiện nhân ngày quốc khánh năm nay Úc đại lợi trao tặng
tước hiệu “Người của năm” cho hai lực sĩ lại càng có ý nghĩa hơn sau khi nổ ra
vụ dối trá và lừa bịp của tay đua xe đạp Lance Armstrong mà nhiều người xem là
sự kiện gây chấn động mạnh nhứt kể từ sau vụ Watergate tại Hoa kỳ. Trong vụ
Watergate, sự kiện một đương kim tổng thống Mỹ đã bị buộc phải từ chức chỉ vì “nghe
lén” điện thoại của đối phương trong thời gian tranh cử đã bị cả thế giới đánh
giá như một trong những vết nhơ lớn trong lịch sử Hoa kỳ. Nhưng được chú ý
không kém biến cố lịch sử này là chuyện tay đua xe đạp Mỹ Lance Armstrong đã lừa
bịp được không những giới hữu trách thể thao mà còn cả tỷ khách hâm mộ thể thao
trên khắp thế giới và ngay cả các nhà kinh doanh lớn khi dùng thuốc kích thích
để thắng liên tiếp 7 vòng đua xe đạp nước Pháp.
Hành động gian dối
và lừa bịp của tay đua này đã bị nhiều cơ quan truyền thông phanh phui, nhưng
thế lực của đồng tiền chứ không phải uy tín thể thao đã giúp ông bịt miệng được
tiếng nói chân thực. Nhưng cây kim trong bọc lâu ngày rồi cũng có lúc lòi ra.
Sau khi đã bị tước đoạt 7 tước vô địch vòng đua nước Pháp và còn bị đe dọa truy
tố trước pháp luật, cuối cùng Lance Armstrong đành phải lên tiếng “tự thú”.
Nhân chuyến đi nghỉ
hè vừa qua tại Hawaii, ông đã gặp bà Ophrah Winfrey, nữ hoàng hội thoại truyền
hình nổi tiếng nhứt thế giới hiện nay. Hai bên đã thỏa thuận để ông được lên tiếng
về những vụ tai tiếng vừa qua.
Cả thế giới đã có
dịp theo dõi cuộc phỏng vấn kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ và nhận ra cả nghệ
thuật lừa dối tinh xảo của tay đua này. Như chính ông đã nhìn nhận, đây là một
vụ lừa dối hầu như “hoàn hảo”: chiến thắng bệnh ung thư tinh hoàn, trở lại với
những vòng đua chuyên nghiệp, thắng liên tiếp 7 lần vòng đua nước Pháp, có một
cuộc sống gia đình hạnh phúc và mẫu mực, hăng say hoạt động trong các công tác
từ thiện, trở thành huyền thoại và nguồn cảm hứng cho vô số người trên thế giới,
nhứt là giới trẻ và những người đang chiến đấu với bệnh tật. Một câu chuyện
thành công như thế, ai mà dám nghi ngờ về tính trung thực. Vậy mà cuối cùng,
khi sự thật được phơi bày, mọi người mới vỡ lẽ rằng toàn bộ sự thành công ấy đều
được xây dựng trên dối trá và lừa bịp và lừa bịp một cách tinh xảo.
Người ta nói rằng
người dân Texas, Hoa kỳ thích làm chuyện lớn. Lance Armstrong quả thực đã làm
được chuyện lớn, lớn đến độ khó tưởng tượng và chấp nhận được. Ông không những
lừa được các đối thủ trong trường đua và các giới chức thể thao. Ông cũng lừa cả
những người hâm mộ ông: họ đã tung hô ông, tôn thờ ông, suy tôn ông lên hàng mẫu
mực vì đã mang lại cho họ niềm tin để phấn đấu và để đeo đuổi những lý tưởng
cao đẹp. Đau không kém là những nhà bảo trợ, những người đã bỏ cả núi tiền ra để
mua lấy tên tuổi của ông và quảng cáo cho hàng hóa của mình. Chỉ riêng tại Úc đại
lợi, với 3 lần xuất hiện trong Vòng đua
Miệt Dưới (Tour Down Under), ông đã bỏ túi sơ sơ 9 triệu Úc kim, dĩ nhiên từ tiền
thuế của dân Úc.
Rồi đây, thần tượng
ngã đổ này hẳn phải đương đầu với vô số những hệ lụy về tài chính và luật pháp
do hành động gian dối và lừa bịp của mình tạo ra. Đây có thể là điều mà Lance
Armstrong sẽ chiến đấu cho tới cùng và dĩ nhiên trong vô vọng. Những câu trả lời
của ông trong cuộc phỏng vấn dành cho bà Oprah quả là một cuộc tự thú, nhưng là
một cuộc tự thú bắt buộc, nghĩa là không còn một con đường nào khác để chạy chối.
Cung cách trả lời của ông không làm cho người nghe có cảm tưởng rằng ông đã
chân thành sám hối. Ông Klaus Mueller, chủ tịch của Hội đua xe đạp Úc đại lợi
nói rằng “thật sự, những lời tự thú của ông chẳng thay đổi được gì cả”. Theo
ông Mueller, ngay từ đầu ai cũng đã biết những khám phá của Cơ quan chống xử dụng
chất kích thích trong các cuộc thi đấu (USADA). Trong cuộc phỏng vấn vừa qua,
Lance Armstrong đành phải nhìn nhận bởi vì ông không còn chọn lựa nào khác. Nói
theo ngôn ngữ nhà đạo, với Armstrong, có đấm ngực, có xưng thú, nhưng không có
thực tâm sám hối.
Theo tôi, đây quả
là một điều đáng tiếc. Với một sự hối lỗi chân thành, người ta có thể mất hết mọi
sự: tiếng tăm, danh dự, sĩ diện, quyền lực và dĩ nhiên tiền của. Nhưng bù lại,
họ có thể tìm lại kho tàng vô giá trong cuộc sống. Kho tàng đó chính là bản
thân. Tìm lại được chính mình không là điều quan trọng nhứt trong cuộc sống
sao?
Tôi chợt nghĩ đến 730
người tù đầu tiên đã bị chính phủ Anh quốc đày sang Úc đại lợi và đã đặt chân
lên bờ ngày 26 tháng Giêng năm 1788. Có ai ngờ rằng ngày lịch sử ấy đã trở
thành Quốc khánh của Úc đại lợi và những cựu tù nhân mà Anh quốc muốn đày biệt
xứ cho rảnh của nợ lại trở thành “thủy tổ” của người Úc? Ngày nay, mỗi lần mừng
lễ quốc khánh, tôi không thể không nghĩ đến những tù nhân này. Hơn ai hết, đây
mới thực sự là những người đáng được vinh danh trong ngày quốc khánh. Đáng được
vinh danh không phải vì họ đã tiên phong khai phá đất nước trù phú này, mà vì
đã trở thành mẫu mực cho bất cứ một sự sám hối và đổi đời nào. Tù nhân, ở thời
đại nào và ở đâu cũng thế, thường chỉ còn là những con số. Họ mất hết tất cả. Họ
chẳng còn gì để bám víu vào. Nhưng nếu cần phải tìm một mẫu người biết làm lại
cuộc đời từ những đổ vỡ, mất mát tưởng chừng không gì có thể hàn gắn hay tìm lại
được, thì những tù nhân đầu tiên bị đày lên Úc đại lợi cách đây hơn hai trăm
năm quả là những mẫu người ấy.
Với tôi, họ là những
anh hùng vô danh. Mà quả thật, trên khắp đất nước này, chẳng thấy nơi nào có một
tấm bảng để tưởng niệm hay ghi công những cựu tù nhân này. Thật ra, đã là anh
hùng vô danh thì người ta cũng chẳng cần được nhìn nhận hay vinh danh. Anh hùng
thực sự là anh hùng vô danh! Anh hùng vô danh không cần thành tích, kỷ lục hay
sự tưởng nhớ của người đời. Điều này cũng có nghĩa là anh hùng thực sự là người
cũng chẳng muốn làm anh hùng. Trong các thứ bệnh, không gì trầm trọng bằng bệnh
anh hùng. Trong các thứ biểu dương, chẳng có gì lố bịch bằng biểu dương thành
tích. Tôi không thể không nghĩ đến những “bậc anh hùng” mà cứ ra ngõ là gặp ở
Việt nam. Tôi không thể không nghĩ đến vô số những thành tích, kỷ lục mà cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam lúc nào cũng hô hào thi đua để đạt cho bằng được.
Buồn cho một đất nước giàu chiến công, thành tích, kỷ lục, nhưng lại nghèo về
những giá trị nhân bản, đạo đức cần thiết để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Quả
không quá “cường điệu” để bảo rằng đất nước nào càng có nhiều anh hùng và giàu
thành tích thì lại càng nghèo về mọi phương diện.
Anh hùng vô danh
là những người thực sự không màng đến ngay cả tước hiệu “anh hùng”. Tôi nhớ hồi
đầu thập niên 1990 có xem cuốn phim có tựa đề “Accidental Hero” (anh hùng bất đắc
dĩ) do tài tử gạo cội Dustin Hoffman thủ diễn. Ngoài ra, góp mặt trong cuốn
phim còn có những tên tuổi nổi tiếng như Geena Davis, Andy Garcia, Chevy Chase
và Joan Cusack…Bernie LaPlante (do Dustin Hoffman sắm vai) là một tên chuyên
nghề móc túi. Anh vừa trốn khỏi tù thì xảy ra một tai nạn máy bay. Chẳng chút đắn
do, anh hòa mình vào đám đông để cứu những người còn sống sót. Vô tình, anh làm
rớt một chiếc giày. Sau này, anh gặp một cựu chiến binh đã từng chiến đấu ở Việt
nam và tặng cho ông chiếc giày còn lại. Do chiếc giày mà Bernie đã đánh rơi
trong lúc cố gắng cứu các nạn nhân, báo chí hô hào chủ nhân ra trình diện để được
vinh danh và tri ơn. Do vượt ngục, Bernie không thể ra trình diện. Thế là người
cựu chiến binh đã giành lấy công của anh. Và dĩ nhiên, dù cho Bernie có gân cổ
cãi đến đâu, người ta vẫn tin người cựu chiến binh hơn anh…Câu chuyện xoay
quanh sự ngộ nhận ấy. Người thực sự có công thì chẳng ai tin. Kẻ cướp công thì
lại được nhiều người tôn thành thần tượng.
Cuộc đời đầy dẫy
những chuyện “râu ông nọ cắm cầm bà kia” như vậy. Không thiếu những kẻ huênh
hoang và lừa bịp được vinh danh, nhiều người đáng được nhớ đến lại bị bỏ quên.
Nhân ngày quốc khánh của Úc đại lợi, tôi nhớ đến họ. Đặc biệt là trong lúc này
khi nước Úc đang phải đối đầu với nạn cháy rừng gần như trên quy mô toàn quốc.
Đây là lúc không biết bao nhiêu anh hùng vô danh tình nguyện tham gia chữa cháy
mà không màng đến những thiệt hại cho riêng bản thân hay gia đình. Tinh thần của
những người tham gia SES (nhóm thiện nguyện trong các dịch vụ khẩn cấp), sẵn
sàng bỏ thì giờ, công ăn việc làm và đôi khi cả tính mạng làm cho tôi thấy cần
phải tự nhìn lại chính mình. Sự thầm lặng của họ thật đáng ngưỡng mộ.
Làm anh hùng trong
một biến cố đã là khó, mà làm anh hùng trong suốt nhiều năm dài lại càng khó
hơn. Tôi biết xung quanh tôi có rất nhiều anh hùng. Họ là vô số những người hằng
ngày âm thầm giúp đỡ cho những người yếu đau, tật nguyền hay kém may mắn khác
vì lương tâm, tính lương thiện đòi hỏi họ phải làm như thế hơn là vì lương tiền
và cũng không bao giờ mong được nhìn nhận hay vinh danh. Họ là những người thân
trong gia đình tôi. Họ là người lạ mặt tôi gặp gỡ mỗi ngày, ở bất cứ nơi nào. Câu
chuyện của họ, những người “anh hùng vô danh” chung quanh tôi đã và đang viết
nên trang sử cho một nước Úc giàu nhân bản và tình người.
Tôi cảm mến và hãnh
diện về đất nước này chắc chắn không phải vì Úc là một nước có “thế giá” nhưng là vì tôi cảm
nghiệm được một tinh thần anh hùng phổ quát từ những người Úc bình thường.