25.9.15
Ngày 8 tháng 9 vừa qua, để đánh dấu 50 năm cưỡng chiếm Tây Tạng và tuyên bố
biến quốc gia này thành “Vùng Tự Trị Tây Tạng”, Trung Cộng đã cho tổ
chức một cuộc diễn hành “hoành tráng”. Nhưng trái với cuộc biểu dương lực lượng
tại Quảng trường Thiên An Môn năm ngày trước đó, cuộc diễn
hành tại tại Tây Tạng là một biến cố mà không một ký giả Tây Phương nào được
phép theo dõi.
Một tuần trước đó, tại Tây Tạng, một bà mẹ 55 tuổi tên là Tashi Kyi, đã tự thiêu
để phản đối chính quyền cộng sản Trung Quốc. Ngày hôm sau, bà qua đời. Trong
ngôi làng nhỏ của bà tại quận Sangchu, chính quyền cộng sản đã đưa ra lý do
hành chính để triệt hạ nhiều căn nhà. Kể từ năm 2012, cũng trong quận này, đã
có 10 người tự thiêu để phản đối chính quyền cộng sản Trung Quốc. Trong số những
người này có người cháu của bà Tashi Kyi tên là Sangay. Người thanh niên này đã
tự thiêu trong mùa hè vừa qua. Theo tổ chính phi chính phủ có tên là “Save
Tibet” (Hãy cứu Tây Tạng), kể từ năm 2009 đến nay, đã có ít nhất 143 người tự
thiêu. Chỉ trong năm nay thôi, cũng đã có tới 9 người. Trong một lá thư được
cho phổ biến hồi đầu tháng 9 này, ông Jamyang Jinpa, anh của Sangay, giải thích
rằng “Cuộc tự thiêu này cũng là một hành động phản đối những hành vi tàn bạo của
chính quyền Trung Quốc”.
Trong một buổi lễ được tổ chức ngày 8 tháng 9 vừa qua tại Potala, dinh cũ của
Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Thủ đô Lhasa, chính quyền cộng sản đã nhắc lại rằng Bang thiền Lạt Ma thứ XIV, Tenzin Gyatso, tức Đức Đạt Lai
Lạt Ma, vẫn bị Bắc Kinh xem như một “tên khủng bố”. Trong buổi lễ, ông Yu
Zhengseng, ủy viên Bộ Chính Trị, trước khi tặng cho dân chúng một số
quà, trong đó có máy pha trà với bơ làm từ sữa bò, đã tuyên bố rằng “Kể từ khi
tất cả mọi nhóm sắc tộc đã cùng nhau chống lại “chủ nghĩa ly khai” và như vậy vạch
trần những âm mưu và giật giây của Đạt Lai Lạt Ma cũng như các thế lực thù địch
quốc tế, Tây Tạng đã bước vào một giai đoạn mới hoàn toàn ổn định”.
Để xoa dịu những chỉ trích của thế giới, ngày 6 tháng 9 vừa qua, chính quyền cộng sản Trung Quốc cũng đã cho
công bố một “bạch thư”. Trong “bạch thư”, họ cho biết rằng Bang thiền Lạt Ma Gendun Choekyi Nyima, người đã được Đức
Đạt Lai Lạt Ma chọn hồi năm 1995, “hiện đang sống một cuộc sống bình thường” và
“không muốn bị quấy rầy”. Nhưng ai cũng biết rằng chỉ 3 ngày sau khi được chỉ định
như là người sẽ kế vị nhà lãnh đạo tinh thần do Trung Cộng tự chọn, cậu bé, lúc
đó mới 6 tuổi đã cùng với gia đình biến mất. Chính phủ Bắc Kinh đã chọn một đứa
trẻ khác để bảo đảm chức vụ bang thiền Lạt Ma.
Tuy nhiên cho tới nay, chính quyền cộng sản Trung Quốc vẫn không bao giờ
nói rõ người thanh niên và gia đình của anh hiện đang ở đâu.
Cũng trong “bạch thư” liên quan đến vấn đề tôn giáo tại Tây Tạng, nhà cầm
quyền cộng sản bảo đảm rằng người thanh niên Gendun Choekyi Nyima hiện đang
theo đuổi việc học và cha mẹ của anh cũng đã trở thành những công chức trong
chính quyền địa phương. Theo ông Alistair Currie, phát ngôn viên của tổ chức
phi chính phủ “Free Tibet” (Hãy giải
phóng Tây Tạng) có trụ sở tại London, Anh Quốc, rất có thể điều đó đúng. Nhưng
vấn đề được đặt ra là: tại sao lâu nay chính quyền Trung Cộng lại dấu nhẹm về số
phận của gia đình người thanh niên Gendun Choekyi Nyima.
Sau khi đã chọn một đứa trẻ khác cùng tuổi để thay thế Bang thiền Lạt Ma do Đức Đạt Lai Lạt Ma chọn, Trung Cộng
tuyên bố sẽ bảo đảm truyền thống có từ đời nhà Thanh (1644- 1912). Theo truyền thống này, Bắc Kinh luôn có tiếng
nói cuối cùng trong việc chọn lựa những nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng. Được
bổ nhiệm làm phó chủ tịch của cái gọi là “Hội Phật Giáo Trung Quốc” và thành
viên của “Hội đồng Tham vấn Chính trị Nhân dân”, bang thiền Lạt Ma do Trung Quốc
chọn đã rất ít khi xuất hiện công khai trước công chúng.
Việc bổ nhiệm các nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng là một vấn đề “nhạy cảm”
đối với Bắc Kinh. Chính quyền cộng sản Trung Quốc nghĩ rằng khi chọn những nhà
lãnh đạo mình ưng ý, họ sẽ kiểm soát được các tín đồ Phật giáo Tây Tạng dễ dàng
hơn. Sự kiện Bắc Kinh đã bổ nhiệm một lúc hai vị bang thiền Lạt Ma có thể cho
thấy điều gì sẽ xảy ra sau khi bang thiền Lạt Ma thứ 14, tức Đức Đạt Lai Lạt Ma,
qua đời. Ngài vừa mới mừng sinh nhật thứ 80 ngày 6 tháng 7 vừa qua.
Không bao lâu trước sinh nhật thứ 80, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tuyên bố rằng
ngài sẽ không đầu thai nữa. Năm 2001, Ngài đã nhường
quyền chính trị lại cho một thủ tướng của cộng đồng người Tây Tạng lưu vong. Lần
này, khi tuyên bố không đầu thai, Ngài muốn
ngăn cản việc Trung Cộng tự chọn một người kế vị theo ý họ. Trong một cuộc phỏng
vấn được phổ biến trên trang mạng riêng của Ngài, Ngài nói: “Nếu tình trạng tại Tây Tạng không thay đổi, tôi
sẽ tái sinh ở bên ngoài Tây Tạng để không phải chịu sự kiểm soát của chính quyền
Trung Cộng. Đây là một điều hợp lý, bởi vì mục đích của tái sinh là để tiếp tục
công việc của người đi trước”.
Đây là niềm tin của Phật Giáo Tây Tạng. Niềm tin này đặt chính quyền cộng sản
Trung Quốc, vốn luôn công khai tự nhìn nhận là vô thần và bài tôn giáo, vào thế
phải đứng ra bênh vực và bảo vệ giáo lý về đầu thai. Trên Tân Hoa Xã, chính quyền
Trung Quốc đã duyệt lại lịch sử lâu dài của những cuộc đầu thai tại Tây Tạng và
nhờ các “chuyên gia” Phật Giáo biện bạch cho giáo lý này. Nhưng kết luận tối hậu
của lời biện giải trên Tân Hoa Xã lại khẳng định rằng, từ nhiều thế kỷ qua,
chính Bắc Kinh mới là cơ quan có thẩm quyền để chọn nhà lãnh đạo tinh thần và
chính trị của Tây Tạng.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo The New York Times dạo tháng 7 vừa
qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói một cách mỉa mai: “ Những người cộng sản Trung
Quốc lẽ ra cũng phải nhìn nhận sự tái sinh của Chủ tịch Mao Trạch Đông và ông Đặng Tiểu Bình. Chỉ với điều kiện đó thì họ mới
có quyền xen vào chuyện đầu thai của vị Đạt Lai Lạt Ma”.
Đáp lại nhận định của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong “bạch thư”, chính quyền Bắc
Kinh tái khẳng định rằng họ có quyền kiểm soát tiến trình đầu thai của
vị Đạt Lai Lạt Ma. Ông Norbu Dondrup, một người Tây Tạng được Trung Cộng đặt
lên làm bù nhìn và đại diện cho chính quyền Bắc Kinh tại Tây Tạng hụ họa: “Dù
cho Đạt Lai Lạt Ma có nói hay làm điều gì đi nữa, ông không thể đặt lại vấn đề
về quyền của chính phủ trung ương trong việc chuẩn y việc tái sinh”.
Cuốn “bạch thư” mà chính quyền cộng sản Bắc Kinh cho công bố để rêu rao những
“ân huệ” mà họ đã ban cho Tây Tạng trong 50 năm qua, đã nhấn mạnh đến sự phát
triển kinh tế mà Tây Tạng đã hưởng được nhờ Trung Quốc. Cuốn sách nói đến tổng
cộng số tiền đầu tư vào Tây Tạng là 648 tỷ Nhân dân tệ kể từ khi nước này biến
thành “Vùng Tự Trị Tây Tạng”.
Tuy nhiên, thật khó mà biết người dân Tây Tạng đã hưởng được bao nhiêu từ sự
phát triển kinh tế mà Trung Quốc nói đến. Theo ông Micheal Buckley, tác giả của
cuốn sách “Meltdown in Tibet” (sự tan rã của
Tây Tạng), xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2014, sự phát triển kinh tế mà Trung Cộng đã
mang lại cho Tây Tạng đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại về môi sinh và
văn hóa. Trong khi Trung Cộng rêu rao những thành tựu kinh tế thì ông Buckley lại
cho thấy rằng trong 50 năm qua, Trung Cộng đã chi rất nhiều cho việc thiết lập
tuyến đường hỏa xa từ Bắc Kinh đến thủ đô Lhasa (đã được hoàn thành năm 2006) hơn là hệ thống y tế và trường
học. Theo tác giả Buckley, tuyến đường hỏa xa này chỉ có mục đích đưa di dân
lao động đến làm việc tại Tây Tạng và như vậy khai thác cho đến cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên của nước này mà thôi. Đó là chưa kể đến chủ trương Hán hóa
Tây Tạng của Trung Cộng. Nhiều công ty khai thác hầm mỏ tại Tây Tạng sử dụng nhiều công nhân người Hoa hơn là người Tây Tạng.
Và dĩ nhiên, tuy không có thống kê chính thức, con số tai nạn trong kỹ nghệ
khai thác hầm mỏ cũng vô số kể. Trong một cơn địa chấn xảy ra hồi năm 2013, đã
có 83 công nhân của một công ty quốc doanh thiệt mạng. Trong số này chỉ có hai
người là người Tây Tạng.
Về phần mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma, vẫn luôn khẳng định rằng Ngài lúc nào cũng muốn trở về quê hương nếu Bắc Kinh cho
phép. Từ vài năm nay, Ngài không còn tranh đấu cho độc lập của quốc gia, mà chỉ
xin chính quyền cộng sản Trung Quốc nhìn nhận quyền tự trị thực sự của Tây Tạng.
Đây là đề nghị mà Bắc Kinh đã hoàn toàn bác bỏ trong cuốn bạch thư về Tây Tạng.
Chính quyền Trung Quốc không ngừng tố cáo Đức Đạt Lai Lạt Ma là một tên “khủng
bố” đang có “âm mưu tranh đấu cho nền độc lập của Tây Tạng”. Cuốn bạch thư kết
luận: “Tây Tạng hiện đang ở vào thời vàng son”.
Nằm ở Đông Bắc dãy Hy Mã Lạp Sơn, vào thế kỷ thứ 7 sau công nguyên, Tây Tạng
đã từng là một đế quốc hùng mạnh. Nhưng sự sụp đổ của đế quốc đã khiến cho đất
nước này bị chia năm xẻ
bảy và chỉ thống nhất trên danh nghĩa dưới sự cai trị của
một loạt chính phủ tại Lhasa. Kể từ thế kỷ 17, Tây Tạng bị nhà Thanh xâm chiếm.
Ranh giới hiện nay của Tây Tạng chỉ được xác lập vào thế kỷ 18.
Sau cuộc nổi dậy chống nhà Thanh tại Trung Quốc năm 1912, các binh sĩ của
nhà Thanh đã bị tước khí giới và đưa ra khỏi Tây Tạng. Một năm sau đó, Tây Tạng
tuyên bố độc lập, nhưng không được các chính phủ Trung Hoa thừa nhận. Năm 1951,
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã sát nhập Tây Tạng vào lãnh thổ của mình. Năm
1959, sau một cuộc nổi dậy bất thành,
Tây Tạng đã hoàn toàn bị Trung Cộng nuối trửng và biến
thành “Vùng Tự Trị Tây Tạng”. Lúc bấy giờ đang là nhà lãnh đạo chính trị và
tinh thần của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cùng với hàng ngàn người rời bỏ Tây Tạng để chạy sang lánh nạn tại Ấn Độ và
thành lập chính phủ lưu vong tại Dharamsala.
Dharamsala vốn là một địa điểm nghỉ mát dưới
thời thuộc địa Anh. Thủ tướng Ấn Độ lúc bấy giờ là ông Jawaharlal Nehru đã cho
phép Đức Đại Lai Lạt Ma thành lập chính phủ lưu vong tại Dharamsala cũng như
đón nhận người tỵ nạn Tây Tạng. Năm 1970, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khánh thành
“Thư viện Tây Tạng” chứa đựng trên 80 ngàn thủ bản và tài liệu quan trọng về lịch
sử, chính trị và văn hóa Tây Tạng. Thư viện này được xem như một trong những cơ
sở quan trọng nhất về “Tây Tạng học”. Tất cả những ai muốn nghiên cứu về lịch sử,
văn hóa và nhất là Phật Giáo Tây Tạng đều tìm đến thư viện này. Ngoài thư viện
này, riêng con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã trở thành một tài liệu sống
về Phật Giáo Tây Tạng nói riêng cũng như về Phật Giáo nói chung. Ảnh hưởng tinh
thần của Ngài đối với thế giới ngày nay là điều không thể chối cãi
được. Và dĩ nhiên, qua số phận đau thương của Ngài và dân tộc Ngài, thế giới cũng nhìn thấy được bộ mặt tàn bạo, độc ác,
vô nhân đạo của chế độ cộng sản Trung Quốc.