Chu Thập
7.10.11
Tôi vẫn luôn hãnh diện về sự yên tĩnh
trong cái xóm nhỏ nơi tôi đang ở. Ngoài tiếng chim hót vào buổi sáng, tiếng xe
cứu thương thỉnh thoảng ré lên trong đêm, tiếng trẻ cười đùa trên con đường cụt
sau giờ tan trường mỗi buổi chiều, suốt ngày cái xóm nhỏ của tôi yên ắng đến độ
tôi cứ tưởng như đang ở trong cảnh “dưới trời là ta”. Vậy mà 3 giờ sáng thứ bảy
vừa qua, sự yên tĩnh của xóm tôi đã bị phá vỡ vì một cuộc cãi vã phát ra từ một
gia đình chỉ cách nhà tôi vài bước. Nghe loáng thoáng tiếng chửi cộc cằn của
người chồng và sự đáp trả tru tréo của người vợ, tôi cũng đoán được rằng nguyên
nhân của vụ to tiếng là chuyện ghen tuông. Hai vợ chồng có bốn đứa con trong tuổi
vị thành niên này chỉ mới dọn về xóm tôi được gần một năm nay. Có lẽ đây là lần
đầu tiên những người hàng xóm của tôi bị phá giấc ngủ và dựng đầu dậy vì một tiếng
ồn như thế.
Cứ tưởng có thể nướng thêm vài tiếng đồng
hồ như thường lệ vào mỗi sáng thứ bảy, tôi lại bị kết án vào một sự trằn trọc bất
đắc dĩ. Không dỗ lại được giấc ngủ, tôi đành hướng về Việt nam để ôn lại những
đêm mất ngủ vì sự ồn ào náo nhiệt ở quê nhà.
Trong một tháng đi “thực tế” ở Việt nam,
chỉ có một lần tôi ngủ trong nhà một người bạn và một lần qua đêm trên chuyến
xe buýt được xếp vào hạng “có chất lượng
cao” vì có giường nằm. Tất cả những đêm còn lại, tôi đều thuê nhà nghỉ hay
khách sạn với giá bình dân. Phải nhìn nhận rằng, so với các nước Á châu khác,
như Singapore chẳng hạn là nơi mà giá một đêm nghỉ trong một nhà trọ dành cho
dân “Balô” (Backpackers) không dưới 60 đô Úc, đó là chưa kể điều kiện vệ sinh
không mấy “lý tưởng”, nhà nghỉ và khách sạn bình dân tại Việt nam tương đối đủ
tiêu chuẩn (máy lạnh, nước nóng, tủ lạnh, tivi “cáp”.v.v), giá lại rẻ như bèo:
mỗi đêm chỉ tốn từ 10 đến 12 đô Úc!
Nhưng dù có là 5 sao đi nữa, không khách
sạn nào ở Việt nam có thể được miễn nhiễm về tình trạng quá tải của tiếng động
và sự ồn ào. Tôi đã luôn tìm những nhà nghỉ hay khách sạn nằm khuất trong những
con đường nhỏ, xa những trục lộ giao thông chính, nhưng tôi cứ tưởng sau chuyến
đi Việt nam, tôi phải đi khám bác sĩ tai vì bị tra tấn ở mức độ gần như không
thể cho phép được!
Trong một chương trình du lịch và ẩm thực
được thực hiện tại Việt nam và được chiếu trên đài truyền hình SBS, Luke Nguyễn
nói rằng ở Việt nam hiện có khoảng 30 triệu chiếc xe gắn máy đủ loại. Chương
trình này có lẽ đã được thực hiện cách đây vài năm. Theo tôi ước tính, nay con
số này có thể đã lên đến ít nhứt 40 triệu cho một dân số trên 90 triệu người.
Có thể đây là tỷ lệ cao nhứt thế giới. Thái lan, Phi luật tân, Nam Dương hay Ấn
độ là những nước Á châu nổi tiếng kẹt xe, nhưng nhìn xuống đường có lẽ người ta
không thấy một lưu lượng xe gắn máy khủng khiếp như trong các thành phố lớn của
Việt nam. Tôi nghĩ rằng tại một thành phố lớn như Sài Gòn chẳng hạn, mỗi một
người lớn đều phải sắm riêng cho mình một chiếc xe gắn máy. Như một anh bạn của
tôi chẳng hạn, bốn cha con từ Bà Rịa lên Sài Gòn vừa tìm kế sinh nhai vừa học
hành; họ phải thuê một phòng nhỏ ở Phú Nhuận. Căn phòng “đa năng” được xử dụng
tối đa: vừa là phòng ngủ, phòng học, phòng ăn, nhà bếp, nhà giặt và ban đêm
kiêm cả chỗ để xe. Vậy mà ra khỏi nhà, cha con mỗi người đều có con ngựa sắt
riêng cho mình! Tôi không ngạc nhiên tại sao mỗi ngày ở Việt nam trung bình có
đến 30 người thiệt mạng vì tai nạn giao thông!
Tôi chọn tháng 9 để về thăm Việt nam vì
đây không phải là cao điểm mà người Việt hải ngoại thường về thăm quê hương và
trong nước đây là tháng học sinh tựu trường. Mùa này các khách sạn, nhà nghỉ và
những địa điểm du lịch tương đối vắng người, giá sinh hoạt có phần rẻ hơn. Hơn
nữa, tháng 9 cũng là tháng cổ động “an toàn giao thông” tại Việt nam. Trong những
ngày lang thang ở Sài Gòn, tôi đã nghe không biết bao nhiêu buổi văn nghệ rầm rộ để phát động phong trào “giao
thông an toàn”. Những khẩu hiệu kêu gọi tôn trọng luật giao thông và đi đường
được treo khắp nơi. Nhưng dường như người Việt nam xã hội chủ nghĩa đã ngán tới
cổ “văn hóa khẩu hiệu”, cho nên mặc cho chính phủ có tốn vải và nước sơn để viết
khẩu hiệu và các “văn công” có khàn cả cổ để gào thét, người dân vẫn “giao
thông” theo luật riêng của mình...
Tác giả Sàigòn Cô Nương từ trong nước đã
nói đến những nguyên nhân như sau: “Đầu
tiên xe cá nhân quá đông, ít ai chịu đi xe buýt. Nhà mấy người là bấy nhiều chiếc
xe gắn máy, không kể bây giờ lượng ô tô cũng tăng đáng kể. Chạy xe gắn máy trên
50 phân khối phải có bằng lái nhưng mấy ai giữ đúng luật lệ “sơ đẳng”. Gặp đèn
đỏ không thấy cảnh sát giao thông là chạy luôn, chở ba người và hàng ngang thường
là học sinh giờ tan trường, đi sai làn đường, xe gắn máy nhào qua làn xe hơi và
ngược lại, đường đông xe bốn bánh xếp hàng dài quá, đợi sốt ruột nên lén lấn
qua làn xe hai bánh. Nhất là nhằm lúc kẹt xe, xe cộ vùng vẫy, len lỏi nên tha hồ
lấn đường, nhảy lên lề, quay ngược miễn sao thoát thân. Kẹt xe thì khó gây tai
nạn vì xe nhích từng chút nhưng cảnh hỗn loạn thì đương nhiên. Riêng đường rày
xe lửa nhiều lần tai nạn thương tâm vì ai cũng muốn lấn lên với ý nghĩ mình
nhanh hơn xe lửa.” (Sàigòn Cô Nương, Tháng an toàn giao thông, Việt luận,
11/10/2011)
Tôi thật may mắn, vì không nằm trong số 30
người phải chịu tế thần mỗi ngày cho tai nạn giao thông tại Việt nam trong
tháng 9 vừa qua. Nhưng bù lại cho sự may mắn đó tôi phải bị tra tấn vì tiếng động
cơ ngày đêm đập vào màng nhĩ của mình.
Cứ thử tưởng tượng: dân số “có hộ khẩu”
hẳn hoi tại Sài gòn là 9 triệu, cộng với khoảng 9 triệu người không có thẻ chứng
minh nhân dân hay thuộc diện tạm trú, nếu cứ hai người có một chiếc xe gắn máy,
thì tổng cộng có đến 9 triệu chiếc xe gắn máy. Những chiếc xe này vừa làm cho
giao thông “ùn tắc”, vừa đêm ngày nhả khói và tiếng động vào không khí của thành
phố này. Đó là chưa kể lượng taxi, “ô tô con” của cán bộ và đại gia cũng như
các phương tiện di chuyển công cộng. Tình trạng ô nhiễm không khí và âm thanh
chỉ có thể là “khủng khiếp” mà thôi, bởi vì ở Việt nam làm gì có chuyện kiểm
tra về tình trạng nhả khói hay âm thanh quá tải của các động cơ máy nổ.
Suốt một tháng ở Việt nam, tôi không bao
giờ ngủ được thẳng giấc. Trước năm 1975, cứ đến 10 giờ đêm, từ máy radio và
tivi, ai cũng nghe được lời nhắc nhở “điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để người
xung quanh có thể yên giấc”. Tôi cứ tưởng ngày nay những cái loa phóng thanh
giăng mắc chằng chịt ở mọi góc đường, phải tiếp tục bổn phận nhắc nhở đó. Nhưng
e rằng nếu có thì cũng khó có thể át được tiếng động cơ của hàng hàng lớp lớp
xe gắn máy hoạt động bất kể giờ giấc ở Việt nam. Dường như người Việt nam XHCN thích
sống về đêm hơn. Sinh hoạt về đêm xem ra ồn ào náo nhiệt hơn cả ban ngày. Có những
đêm, từ phòng ngủ, tiếng xe vận tải vào thành phố cộng thêm tiếng ồn ban ngày làm như thể có tiếng sóng biển mùa bão vỗ ầm ầm vào bờ và đập
vào lồng ngực của mình.
Những đêm trằn trọc mất ngủ vì bị tiếng
của động cơ xe gắn máy tra tấn như thế, tôi cứ thắc mắc: tại sao người Việt nam
XHCN không tôn trọng luật giao thông và nói chung sống theo phương châm “mạnh
ai nấy sống” như thế?
Cùng với ý thức hệ, văn hóa, ngôn ngữ...người
“Nước Bắc” cũng đặt lên môi miệng người Miền Nam hai tiếng “vô tư”. Cứ “vô tư” nghĩa là cứ tự
nhiên...như “người Hà nội”, muốn làm gì thì làm, nhứt là cứ tự nhiên làm phiền
người khác, cứ xem người khác như thể không hiện hữu và cũng chẳng hiện diện
trước mặt, bên cạnh hay đằng sau mình.
Tôi không biết người Việt nam XHCN ngày
nay có phải là môn sinh của triết gia hiện sinh Pháp Jean Paul Sartre
không? Ông triết gia đã từng ca ngợi và
hết mình ủng hộ chủ nghĩa cộng sản này là người rất sợ cái nhìn của người khác.
Ông tuyên bố một câu nghe rợn tóc gáy: “Người khác là hỏa ngục” (L’enfer c’est
les autres). Không rõ người Việt nam XHCN hiện nay có ghét cái nhìn của người
khác không, nhưng tuyệt nhiên trên đường đi tôi không thấy người ta nhìn thẳng
về người đối diện, người ta chỉ chăm chăm nhìn vào...cái bánh xe của họ và cái
chỗ nào trống để lủi vô.
Trong những ngày sống ở quê hương, mỗi
khi ra đường tôi thấy thèm ánh mắt của người khác. Tại vùng tôi đang sống, hễ cứ
gặp nhau, bất kể quen lạ, hầu như người Úc nào cũng nhìn thẳng vào mắt của người
đang đi ngược chiều và nếu không nhoẻn miệng cười, thì ít ra cũng mở miệng chào
“Good day, How are you, mate?...” như để nói rằng “tôi nhìn thấy bạn, tôi quan
tâm đến bạn”.
Cứ xem đó như thói quen máy móc và lịch
sự xã giao ngoài môi mép đi. Vậy mà trong một tháng sống ở Việt nam, tự nhiên
tôi thấy “thèm” ánh mắt và câu chào hỏi ấy. Ở Việt nam, người đi xe gắn máy chạy
như thể không có người đi bộ hiện diện trên lòng đường hay ở những nơi dành cho
họ qua lại. Trên lề đường, vốn dành cho người đi bộ, người đi bộ cũng gần như mất
quyền đi bộ, vì không còn một chỗ trống nào dành cho họ đã đành, mà cũng chẳng
ai đếm xỉa đến họ. Nếu có đi ngược chiều, thì cũng chẳng ai màng đến sự hiện diện
của người đối diện. Còn những người từ trong nhà dắt xe ra thì đương nhiên cũng
xem người đi bộ như không hiện hữu. Người ta cứ “vô tư” đẩy chiếc xe của mình ra
mà không cần phải nhìn người đang đi trên lề đường. Trong một tháng sống ở Việt
nam, không biết bao nhiêu lần, tôi cứ lâm vào cái thế phải bị đẩy xuống lòng đường
để tránh những chiếc xe được “vô tư” dắt ra và ủi vào người mình.
“Vô tư” để không quan tâm đến sự hiện diện
của người khác đã đành, người Việt nam lại càng “vô tư” trong những chuyện có thể gây nguy hại
cho người khác. Tôi vẫn không thể quên được những lần phải “hút thuốc thụ động”
trên một số chuyến xe buýt. Có lần, người tài xế, anh lơ xe và một hai người
khách quen thuộc khác châu đầu lại để “vô tư” nhả khói, mặc cho tôi đã buộc mở
miệng nài nỉ xin “tha” cho vì nhà tôi dị ứng với khói thuốc và ở băng sau một
em bé còn bồng trên tay phải ho từng cơn. Tôi lại cảm thấy “đau lòng” hơn vì
phía trên người tại xế có một tấm bảng có ghi hẳn hoi câu “Cấm hút thuốc”.
Mới đây, trong phần tin tức trên đài
SBS, tôi nhìn thấy cảnh một bé thơ bị xe cán trên lề đường. Chuyện ấy thì xem
ra chẳng có gì phải đáng nói trong một quốc gia cộng sản có trên cả tỷ người và
tai nạn giao thông chết người còn bình thường hơn cả “chuyện thường ngày ở huyện”.
Đáng nói ở đây là có đến gần 20 người
qua lại vẫn “vô tư” bỏ đi như thể không có chuyện gì xảy ra.
Chuyện này không thể không làm tôi liên
tưởng đến hình ảnh phải nói là rùng rợn xảy ra ở Việt nam cách đây không lâu và
đã được tải lên YouTube như chuyện “chỉ có ở Việt nam”. Đó là hình ảnh của một
người được nhận diện là công an trên đường đi mua vật liệu xây cất đã bị một
chiếc xe tải cán đứt nửa người. Trong bức ảnh, người ta thấy nạn nhân, mặc dù
chỉ còn một nửa người từ bụng trở lên, vẫn còn tỉnh và cố gắng nói chuyện với một
vài người qua lại. Đáng chú ý nhứt với tôi không hẳn là hình ảnh đáng thương của
nạn nhân, mà là trong hơn 5 phút, làn sóng xe cộ và người qua lại vẫn thản
nhiên và “vô tư” tiếp tục nhịp sinh hoạt như thể không hề có một người đang hấp
hối gần đó.
Tại sao con người xã hội chủ nghĩa, dù
là ở Trung Quốc hay Việt nam, đã có thể trở nên vô cảm trước khổ đau của người
đồng loại và “vô tư” làm phiền người khác như thế?
Trong sự trằn trọc mất ngủ vì tiếng nổ của
làn sóng xe gắn máy ở Việt nam, tự nhiên tôi lại nhớ đến câu nói bất hủ của ông
tổ chủ nghĩa Marxit: “Chỉ có thú vật mới ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi khổ của đồng
loại để quay ra chăm sóc cho bộ da riêng của mình”.
Nếu sống lại để nhìn thành quả hôm nay,
Các Mác sẽ nghĩ gì? Hay ông cũng chỉ trả lời: “Thì cứ vô tư đi!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét