29/5/20
Thời đại dịch, mọi thứ đều thay đổi. Kể cả sinh hoạt tôn
giáo. Từ vài tháng nay, mấy ông bạn già công giáo của tôi không cần phải tới
nhà thờ vào mỗi cuối tuần nữa: ngồi nhà chú mục vào màn ảnh truyền hình, vừa
rung đùi vừa “xem lễ” mà vẫn thấy tham dự đầy đủ vào “các phép” trong đạo!
Sinh hoạt tôn giáo là một nhu cầu thiết yếu của người có
niềm tin tôn giáo. Bỏ nước ra đi, các tín đồ Việt Nam thường tìm đến định cư ở những
nơi nào có chùa chiền, đền thờ, thánh thất, giáo đường và nhứt là có đông người
đồng hương để tham dự các sinh hoạt tôn giáo. Đến nơi thờ phượng không chỉ để
thỏa mãn nhu cầm tâm linh, mà còn để có được chút hơi ấm của tình đồng hương, bảo
tồn ngôn ngữ, văn hóa và những giá trị truyền thống của dân tộc. Có người còn
tìm đến các sinh hoạt tôn giáo với một mục đích thầm kín khác. Một ông bạn người
Úc của tôi tâm sự rằng lúc nhỏ ông đã được nuôi dạy trong một môi trường thuần
công giáo: học trường công giáo, đi lễ mỗi ngày chúa nhựt. Nhưng ông thú nhận rằng
ở tuổi đôi mươi, ông háo hức đến nhà thờ mỗi ngày chúa nhựt là chỉ để nhìn ngắm
đàn bà con gái!
Nhưng sinh hoạt tôn giáo không chỉ là một nhu cầu, mà còn
là một nghĩa vụ. Ngay từ thuở nhỏ, tôi đã được uốn nắn để lúc nào cũng xem sinh
hoạt tôn giáo trước hết như một nghĩa vụ. Một cách cụ thể, tôi đã được dạy rằng
thánh lễ chúa nhựt là một “lễ buộc”. Bà mẹ đạo đức của tôi luôn đe dọa rằng bỏ
“lễ buộc” là phạm tội trọng và hễ phạm tội trọng mà lỡ chết tươi ăn năn tội chẳng
kịp thì sẽ sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp chẳng cùng! Nghe khiếp quá cho nên có
lười biếng và ham chơi cỡ nào, tôi cũng không bao giờ dám bỏ lễ chúa nhựt.
Cùng với lời đe dọa của mẹ tôi, tôi còn phải chịu sự rình
mò theo dõi của các “công an tôn giáo” là các bà xơ và ông cha sở. Đây là những
ông kẹ bà chằng lúc nào cũng giám sát chặt chẽ các sinh hoạt tôn giáo của tôi.
Lúc nhỏ tôi đã chịu không biết bao nhiêu trận đòn chí tử trước mặt những đứa trẻ
khác chỉ vì cái tội bỏ học giáo lý và trốn tránh các sinh hoạt tôn giáo khác ở
nhà thờ. Bị đòn giữa nhà thờ, có lúc tôi cũng ngước mắt nhìn lên Chúa, nhưng
dung mạo của Chúa mà tôi thấy được qua dòng nước mắt lại được phản ảnh qua hình
ảnh hung bạo của ông cha sở và các bà xơ. Trong trí tưởng tượng của tôi, Chúa
là một ông già râu tóc bạc phơ, trên tay lúc nào cũng cầm cây gậy và ánh mắt dữ
dằn lúc nào cũng rình rập săm soi mọi sự “trong ngoài” của tôi để trừng phạt
hơn là yêu thương. Nói cho cùng, tôi đã “giữ đạo” vì sợ hơn vì mến. Sách Châm
Ngôn trong Kinh Thánh của Do Thái và Kitô Giáo đã chẳng dạy rằng “kính sợ Thiên
Chúa là khởi đầu của sự khôn ngoan” (Châm Ngôn 9,10) đó sao?
Trong những suy tư về niềm tin tôn giáo của mình, tôi thường
tự hỏi: niềm kính sợ Thiên Chúa đã được người lớn nhồi nhét vào đầu óc thơ dại của tôi hay nó đã có sẵn trong
máu của tôi?
Những cuộc nghiên cứu trong một số lãnh vực như khảo cổ học,
xã hội học, nhân chủng học...về cuộc sống của những người sống vào thời hái lượm
cho thấy rằng các tổ tiên tiền sử của loài người không hề có tôn giáo. Họ cũng
tin có những thần linh vô hình đàng sau những sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng ý
niệm về một Đấng trên đầu trên cổ luôn có mặt để theo dõi và xét xử con người
thì hoàn toàn xa lạ với họ. Họ không cần có một niềm tin vào Thiên Chúa hay một
Đấng Tối Cao nào đó để theo dõi họ. Trong những bộ lạc nhỏ bé của họ, mọi người
đều biết nhau; chẳng có gì là bí ẩn đối với nhau. Nói cách khác, họ không cần
có một Đấng từ trên trời cao nhìn xuống
để theo dõi, giám sát và điều hợp thói ăn nết ở của họ.
Chỉ cách đây khoảng 10.000 năm, khi nông nghiệp xuất hiện
thì các tôn giáo có tổ chức mới phát sinh. Biết canh tác cũng có nghĩa là có dư
thừa thực phẩm có thể nuôi sống nhiều người một lúc. Làng mạc và đô thị càng
phát triển thì con người càng trở thành xa lạ với nhau và cũng dễ có khuynh hướng
vì tư lợi mà hãm hại người khác. Đó là định nghĩa dễ hiểu nhứt về thế nào là sự
dữ và điều ác. Cảnh sát không phải lúc nào cũng có mặt khắp nơi để giữ gìn an
ninh và trật tự trong xã hội. Chỉ còn mong đợi có một Đấng Toàn Năng và Toàn
Tri may ra mới có thể làm điều đó. Chính vì vậy mà các nền văn minh của nhân loại
mới “phát minh” ra các thần linh hay một Đấng Tối Cao để khuyến khích hay buộc
con người phải biết ăn ngay ở lành, làm điều thiện và tránh điều ác và nhờ vậy
mới bảo đảm được trật tự xã hội.
Ngay từ Thế kỷ 18, triết gia Pháp Voltaire đã muốn giải
thích về nguồn gốc của tôn giáo khi ông nói: “Nếu Thiên Chúa không hiện hữu,
thì cần phải tạo ra Thiên Chúa” (1).
Theo Kinh Thánh, “Thiên Chúa đã tạo dựng con người” (Sáng
Thế Ký 1, 26). Nhưng lịch sử nhân loại dường như lại nói với tôi rằng chính con
người mới tạo dựng Thiên Chúa và vẽ cho Ngài một dung mạo với đủ mọi hình thái
có khi hoàn toàn đối nghịch nhau. Thiên Chúa của dân tộc này ra lệnh tàn sát
dân tộc của một Thiên Chúa khác.
Cứ mỗi lần xảy ra ôn dịch hay đại dịch, tôi cũng thường
nghĩ đến Thiên Chúa do con người tạo ra. Oberammergau là một trong những thị trấn
nổi tiếng nhứt của Đức. Nổi tiếng nhờ vở tuồng “Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu” do
chính người dân thị trấn đồng diễn xuất cứ 10 năm một lần và là cơ hội để thu
hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Lẽ ra năm 2020 này là năm thị trấn
Oberammergau trình diễn vở tuồng này, nhưng vì đại dịch Covid-19 vở tuồng được
dời vào năm 2022. Vở tuồng huy động đến 3000 diễn viên vốn là người dân của thị
trấn. Những diễn viên chính trong vở tuồng sẽ phải tập dượt và nhập vai trong
suốt 10 năm ròng rã!
Theo truyền tụng, vào năm 1633, một trận dịch đã càn quét
làng Oberammergau. Chỉ trong 33 ngày, đã có 81 người, tức một nửa dân số trong
làng, bị thiệt mạng. Những người còn sống sót liền bày tỏ cam kết với Thiên
Chúa rằng nếu Ngài tha mạng cho họ thì cứ mỗi 10 năm kế tiếp, họ sẽ diễn lại cuộc
tử nạn của Chúa Giêsu. Sau khi dân chúng dâng lên Thiên Chúa lời khấn nguyện
đó, Thần Chết đã không còn bắt thêm một người nào nữa và đúng như cam kết, năm
sau người dân làng Oberammergau đã trình diễn vở tuồng ấy. Từ đó cho đến nay,
vì hoàn cảnh hoặc vì lý do bất khả kháng, vở tuồng đã bị đình hoãn nhiều lần,
nhưng thị trấn Oberammergau vẫn cố gắng giữ truyền thống và lời cam kết của họ
với Thiên Chúa, một Thiên Chúa mà người ta luôn tin là có vai chủ động
trong ôn dịch hay chiến tranh của con
người (2).
Trong đại dịch Covid-19 hiện nay, tôi cũng nhớ lại quyển
tiểu thuyết “Dịch Hạch” (La Peste) nổi tiếng của nhà văn Pháp Albert Camus (1913-1960)
mà tôi đã có dịp đọc trong những năm cuối của thập niên 1960 khi tập tễnh làm
quen với trào lưu triết học hiện sinh. Theo một trong những nhân vật chính của
quyển tiểu thuyết là linh mục Paneloux, ôn dịch là một sự trừng phạt của Thiên
Chúa đối với những kẻ cứng lòng tin nơi Ngài. Chứng kiến cái chết của một đứa
trẻ, vị linh mục tuyên bố rằng đây là ý Chúa. Ông kêu gọi giáo dân hãy chấp nhận
điều đó. Bị lây nhiễm, thay vì gọi bác sĩ đến, ông đặt niềm tin tưởng nơi Thiên
Chúa và nằm chờ Ngài đến cứu chữa. Và ông đã chết trong niềm tin tưởng ấy!
Tôi không biết có nên so sánh niềm tin của linh mục
Paneloux trong quyền tiểu thuyết “Dịch Hạch” với thái độ thách thức của một số
nhà lãnh đạo tinh thần ở Mỹ trong thời đại dịch hiện nay không. Một trong các nhà
lãnh đạo Tin lành nổi tiếng ở Mỹ trong thời đại dịch này là mục sư Ralph
Drollinger. Theo ông, đại dịch đang hoành hành tại Mỹ hiện nay là biểu hiện của
“cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”. Trong một lần thuyết giảng cho các nhân viên Tòa
Bạch Ốc, ông quy trách cơn đại dịch cho những người đồng tính, những người
tranh đấu để bảo vệ môi sinh cũng như những người mà ông gọi là “có đầu óc bại
hoại”. Theo một cuộc thăm dò mới đây do hãng thông tấn AP thực hiện, có đến hai
phần ba tín hữu Kitô, phần lớn là Tin Lành, tin lời của vị mục sư này. Trong số
này, không thiếu người cho rằng thuốc chủng ngừa Covid-19 có thể là một cuộc tấn
công nhắm vào Kitô Giáo.
Bất chấp lệnh đóng cửa tại nhiều tiểu bang, một số vị mục
sư đã mở cửa nhà thờ để tổ chức việc thờ phượng. Người ta dựa vào Thánh Vịnh 91
trong Kinh Thánh để bày tỏ niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Bạn không sợ cảnh
hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong
đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa. Dù tả hữu có ngàn người quỵ ngã, dù
hai bên có chết vạn người, riêng phần bạn, tuyệt nhiên không hề hấn”. Với niềm
tin tưởng ấy, tại Tiểu bang Virginia, một vị giám mục Tin Lành đã tuyên bố:
“Thiên Chúa vĩ đại hơn con siêu vi”. Và ông sẵn sàng đi tù hay vào nhà thương
chớ không chấp nhận bị cấm cố trong thời đại dịch. Ngày 15 tháng Ba, ông đã
công khai tổ chức một buổi thờ phượng với sự tham dự của khoảng 200 giáo dân. Một
tháng sau đó, ông qua đời vì Covid-19. Tại Mỹ, đã có hàng tá nhà lãnh đạo tôn
giáo chết vì không chấp nhận lệnh cấm cố trong thời đại dịch (3). Mới đây, ở Đức,
tin tức cho biết cũng có nhiều người bị lây nhiễm vì tham dự các buổi thờ phượng
bất chấp lệnh cấm cố.
Theo dõi cung cách thể hiện niềm tin tôn giáo trên đây,
tôi không thể không nghĩ đến câu nói của nhà bác học lừng danh của Thế kỷ 20 là
Albert Einstein: “Tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng”.
Là người có niềm tin tôn giáo, tôi thường lấy câu chuyện
sau đây ra nghiền ngẫm: “Một tín đồ nọ tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn che chở
và cứu thoát mình khỏi mọi nguy biến. Một trận lũ lụt xảy đến. Trong khi mọi
người di tản thì ông lại leo lên mái nhà để chờ đợi Thiên Chúa đến cứu thoát.
Nhiều đoàn cứu thương đã đi rảo qua khắp làng để tìm kiếm những người cuối
cùng. Ngay cả một chiếc trực thăng cũng bay lượn mấy vòng. Nhưng mặc cho lời
kêu gọi di tản, người tín đồ cứ ngồi chờ trên nóc nhà. Nước lũ ngày càng dâng
cao và cuối cùng nhận chìm ông trong dòng nước. Ra trình diện trước mặt Thiên
Chúa, người tín đồ trách móc tại sao Thiên Chúa đã không đích thân đến cứu
thoát một người đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài như ông. Thiên Chúa mới trả lời:
Ta đã cho mấy đoàn cứu thương đến tìm người. Ta cũng đã cho cả một chiếc trực
thăng đến nài nỉ ngươi. Vậy mà ngươi có chịu lắng nghe lời Ta đâu!”
1. https://www.psychologytoday.com/us/blog/talking-apes/202005/when-god-is-watching-you-in-the-bedroom