Chu Thập
17.7.15
Nghe một người ngoại quốc nói hay hát tiếng Việt đã thích rồi. Nghe họ “lẩy Kiều” lại càng cảm động hơn. Như tối 7 tháng 7 vừa qua
chẳng hạn, trong bài diễn văn đọc trong buổi tiếp tân tại Bộ ngoại giao dành
cho ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Joe Biden, đã khiến cho nhiều người ngạc
nhiên một cách thích thú khi ông bất ngờ “xổ” Kiều: “Trời còn để có hôm nay. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”.
Nghe đâu hồi năm 2000, khi viếng thăm Việt Nam, cựu Tổng thống Bill Clinton cũng đã được ai đó mớm cho hai câu
Kiều: “Sen tàn cúc lại nở hoa. Sầu dài
ngày ngắn đông đà sang xuân”. Trong cả hai trường hợp “lẩy Kiều” trên đây, các nhà lãnh đạo Mỹ đều có ý mượn thơ của
cụ Tiên Điền Nguyễn Du để nói đến mối quan hệ ngày càng tốt đẹp
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo Mỹ vốn rất sành tâm lý người đối diện. Họ biết những gì
người đối diện thích nghe. Còn nhớ trong chuyến viếng thăm lịch sử tại Trung Cộng
hồi năm 1972, cố Tổng thống Richard Nixon đã không hề nhắc đến bất cứ lời
giáo huấn nào của Đức Khổng Tử, mà luôn miệng ca ngợi những bài thơ của “thi
sĩ” Mao Trạch Đông.
Tôi không phải là người “chống Mỹ cứu nước”. Nhưng tôi không phải là người
“dễ tin” đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Bộ ngoại giao Hoa Kỳ lúc nào
cũng rêu rao rằng chính sách đối ngoại của họ đặt nền tảng trên sự tôn trọng
nhân quyền. Lâu nay tôi cứ ngây thơ tưởng rằng Hoa Kỳ là nhà vô địch bảo vệ
nhân quyền và nước nào vi phạm nhân quyền, Hoa Kỳ sẽ, nếu không đánh cho một vố,
thì cũng nghỉ chơi với họ.
Tôi thấy bẽ bàng khi nhìn lại lịch sử. Trong những thập niên 60, 70, 80 của
thế kỷ trước, hầu hết những nước bị đặt dưới sự cai trị của các chế độ độc tài
quân phiệt ở Châu Mỹ La Tinh và Á Châu đều là đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ. Ngay cả ngày nay, một số nước có thành tích nhân quyền tồi
tệ nhứt thế giới cũng vẫn tiếp tục là đồng minh hầu như không thể thiếu được của
Hoa Kỳ. Tôi nghĩ đến một số nước ở Trung Đông. Cứ thử đến vương quốc Á Rập
Saudi và hành xử như một người Mỹ trên đất Mỹ để xem thử đồng minh của Hoa Kỳ
này có vi phạm nhân quyền không.
Trong suốt dòng lịch sử của mình, các chính phủ Hoa Kỳ có nói một đàng và,
vì quyền lợi của mình mà làm một nẻo không? Tôi
luôn nghi ngờ điều đó. Một người Việt tỵ nạn như tôi thấy thấm thía về điều đó
lắm khi nhìn lại cái bắt tay lịch sử của cố Tổng thống
Nixon với “đồ tể” Mao Trạch Đông hồi năm 1972. Hoa Kỳ đã giải quyết chiến tranh Việt Nam hay
đúng hơn “tháo chạy” khỏi đồng minh Miền Nam Việt Nam như thế đó. Miền Nam Việt Nam đã bị bán đứng
và Biển Đông của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á có lẽ cũng đã được bán đứng
với cái bắt tay ấy. Ngay từ năm 1974, Trung Cộng hẳn đã không ngang nhiên đánh
cướp Trường Sa của Miền Nam Việt Nam nếu không có cái bắt tay ấy và sự thinh lặng
hầu như đồng lõa của Hoa Kỳ.
Vì quyền lợi của mình, Hoa Kỳ dường như sẵn sàng đi ngược lại với các
nguyên tắc chỉ đạo mà họ luôn đề cao trong chính sách đối ngoại của mình. Cái bắt
tay của Tổng thống Nixon với đồ tể Mao Trạch Đông cũng chẳng khác
bao nhiêu so với cái bắt tay của Tổng thống
Barack Obama với ông Nguyễn Phú Trọng khi ông đón tiếp “hung thần” của các quyền
tự do căn bản của con người như một quốc khách. Khi đón tiếp ông Trọng như một
quốc khách, Chính phủ Hoa Kỳ lại càng tạo điều kiện để ông công khai
hóa chế độ độc tài đảng trị do ông lãnh đạo và như vậy mặc nhiên muốn tuyên bố rằng, dù cho Tổng thống Obama có lên lớp để nói xa nói gần về thành tích nhân quyền của
Việt Nam đi nữa, chính Hoa Kỳ cũng đồng lõa với ông
trong việc vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.
Với cái nhìn đơn giản của tôi, người anh cả Hoa Kỳ lúc nào cũng có hai mặt.
Đã hai mặt thì cũng có thể “trở mặt” bất cứ lúc nào. Tôi cứ nghe người ta bảo:
làm kẻ thù của Hoa Kỳ dễ hơn làm bạn với nước này. Nhưng dù sao, “hai mặt” của Hoa Kỳ xem ra
không đến nỗi trơ trẽn như cái sĩ diện hão của mấy ông cộng sản Việt Nam. Được Chính phủ Hoa Kỳ tâng bốc và “lẩy Kiều” cho nghe, Tổng bí thư
Trọng chắc chắn đã huênh hoang tự đắc hơn bao giờ hết và dĩ nhiên các cái loa
tuyên truyền ở Việt Nam tha hồ mở hết công xuất để hát lên khúc khải hoàn ca. Bộ
mặt của chế độ độc tài vừa được Hoa Kỳ vuốt ve đã sáng rỡ trên chính trường thế
giới. Cùng với ông Trọng, những người cộng sản Việt Nam chỉ mong có thế. Nhưng
với một người Việt tỵ nạn như tôi và nhứt là với những người Việt Nam đang bị
chế độc độc tài đảng trị này tước đoạt mọi quyền tự do căn bản, thì có lẽ đối lại
với câu “tan sương đầu ngõ” không gì chỉnh và đúng hơn là “tối đen trong nhà”.
Đối lại với bộ mặt của một Việt Nam mà phó tổng thống Joe Biden đang cho “vén
mây giữa trời” trong quan hệ với Hoa Kỳ, còn gì u ám bằng bóng tối đang bao
trùm lên cuộc sống của người dân trong nước hiện nay. Lẽ ra, Hoa Kỳ phải lắng
nghe cụ Trần Đĩnh “vén mây giữa trời” cho mặt trời công lý chiếu soi vào bóng tối
của những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam mới phải. Buồn thay, Hoa Kỳ chỉ vuốt
ve cái sĩ diện hão của người Cộng Sản Việt Nam mà thôi.
Cái sĩ diện hão mà những người cộng sản Việt Nam lúc nào cũng tô vẽ không
thể nào che đậy được thực chất của một nước Việt Nam đang bị chế độ độc tài đảng
trị làm cho lạc hậu và nghèo nàn về mọi phương diện. Những cung điện nguy nga
và khối tài sản kết xù ăn cướp được của dân mà những người cộng sản ngang nhiên
phô bày không thể nào che đậy được cuộc sống lầm than khốn khổ của tuyệt đại đa
số người dân Việt Nam. Những mảnh bằng đủ cấp đeo đầy mình trên người của các cấp
lãnh đạo lại càng làm lộ ra cái hố sâu dốt nát mà đảng cộng sản Việt Nam đã nhận
chìm cả dân tộc vào. Bộ mặt văn hóa và “đạo đức”, nhứt là đạo đức của cha già
dân tộc tội đồ Hồ Chí Minh, lại càng làm rõ nét cái lỗ hổng đạo đức và tình trạng
vô cảm hiện nay của xã hội Việt Nam.
Cái sĩ diện hão càng kệch cỡm thì càng để lộ sự trống rỗng bên trong.
Thời tôi còn ở bậc trung học, hầu hết các thày dạy của tôi đều là những
“nhà giáo” theo đúng nghĩa. Các vị không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn dạy dỗ
cho học sinh nên người, nghĩa là biết sống lương thiện, chân thật, tử tế và
trung thực. Tôi vẫn còn nhớ mãi những bài học như thế của vị giáo sư Việt văn
trong những năm cuối bậc trung học, đặc biệt khi thày nói đến một học giả người
Tàu nổi tiếng vào thế kỷ 15 và 16 là ông Vương Dương Minh. Về học giả này, tôi
không thể nào quên được một giai thoại theo đó, lúc còn nhỏ, có lần ông hỏi
thày mình: “Thưa thầy, ở đời có việc gì là cao hơn cả?” Là người thấm nhuần Khổng
Nho, ông thầy chỉ biết khẳng định: “Thi đậu ra làm quan để thờ vua, giúp nước,
làm vẻ vang cho tổ tiên là cao hơn cả”. Nghe thế, người học trò Vương Dương
Minh lắc đầu đáp: “Thưa thầy, con cho vậy là chưa cao, học làm được “ông thánh”
mới là cao”.
Không biết ông Vương Dương Minh có chịu ảnh hưởng của triết lý Hy Lạp
không, nhưng trước ông cả chục thế kỷ, triết gia Hy Lạp Plato (thế kỷ thứ Tư
trước Công Nguyên) cũng đã từng nói rằng “làm vua cũng phải đồng thời là một
nhà hiền triết”. Đây chính là lý tưởng mà Hoàng đế Marcus Aurelius (121- 180
sau Công Nguyên) của Đế quốc La Mã đã thực hiện trong suốt thời gian trị vì của
ông. Qua cuộc sống và nhứt là tác phẩm ông để lại, Hoàng đế Aurelius đã chứng tỏ
ông là một nhà hiền triết luôn đề cao những đức tính nhân bản cao quý cần được
trau dồi.
Theo thày tôi, học giả Vương Dương Minh không chỉ muốn làm được “ông
thánh”, ông còn xướng ra thuyết “nội thánh ngoại vương”. Đại khái thày tôi giải
thích rằng theo thuyết này, con người phải sống như thế nào để lời nói và hành
động luôn đi đôi với nhau (tri hành hợp nhất), sĩ diện phải luôn phù hợp với thực
chất và nội tâm.
Có lẽ đồ tể Mao Trạch Đông không hề biết đến hoặc cố tình xóa bỏ một học thuyết
như thế cũng như toàn bộ Khổng giáo ra khỏi thiên đàng xã hội chủ nghĩa của
ông, cho nên ngày nay nền văn minh kỹ thuật và vật chất mà Trung Cộng đã xây dựng
được ngày càng làm lộ ra hố thẳm tinh thần và đạo đức của mình. Trung Cộng đang
muốn trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới. Trung Cộng đang muốn chiếm trọn
Biển Đông và làm bá chủ thế giới. Ở quốc gia cộng sản này, cái gì cũng muốn đạt
kích thước vĩ đại. Nhưng những giá trị tinh thần và đạo đức và “tính người” thì
ngày càng teo lại.
Ở Việt Nam cũng thế thôi. Cái gì cũng muốn được ghi vào cuốn sách của những
kỷ lục thế giới “Guinness book”: chiếc bánh chưng lớn nhứt thế giới, tô hủ tiếu
lớn nhứt thế giới, bức tượng bà mẹ anh hùng lớn nhứt Đông Nam Á, đất nước có
nhiều bằng tiến sĩ nhứt thế giới...đủ thứ lớn nhứt thế giới! Nhưng “tan sương đầu
ngõ” mà vẫn cứ “tối đen trong nhà”. Cái “ngoại vương” hoành tráng và giả tạo ấy
không đủ sức để che đậy những lỗ hổng tối tăm trong nhà, bởi vì cái “nội thánh”
đã hoàn toàn bị thói dối trá của người cộng sản bóp nghẹt.
Không biết sau khi Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng được
Chính phủ Mỹ long trọng đón tiếp, tình hình Biển Đông sẽ diễn biến như thế nào.
Tôi chỉ biết rằng nếu cái bắt tay của Tổng thống Nixon với đồ tể Mao Trạch Đông
vẫn còn ám ảnh người Việt tỵ nạn thì nay việc Chính phủ Obama đón tiếp tổng bí thư của một đảng chính trị
như một nguyên thủ quốc gia, nhứt là một đảng cộng sản đang cai trị đất nước bằng
bàn tay độc tài khát máu của nó, tôi chẳng thấy có chút “hồ hởi phấn khởi” gì
trong một giải pháp cho vấn đề Biển Đông. Tôi lại càng chẳng có chút hy vọng gì
vào những biến đổi sâu rộng có thể xảy ra tại Việt Nam sau chuyến đi Hoa Kỳ của
ông Trọng.
Mặc dù với nhiều dè dặt, khi ông Trọng vừa bước xuống khỏi máy bay, Chính
phủ Hoa Kỳ chỉ cho trải một tấm thảm đỏ ngắn dành cho một nghệ sĩ hay cô dâu
chú rể chứ không phải loại thảm đỏ trong nghi thức ngoại giao dành cho quốc
khách và nhứt là người đón tiếp ông Trọng chỉ là một viên phụ tá ngoại trưởng đặc
trách Đông Á và Thái Bình Dương, nhưng báo chí công cụ ở Việt Nam vẫn cứ tỉnh
bơ thổi phồng rằng ông Trọng đã được chính phủ Mỹ “trải thảm đỏ” theo đúng nghi
thức ngoại giao. Vẫn là chuyện sĩ diện hão.
Việt Nam có thể mất vào tay Trung Cộng. Nhưng trước khi mất vào tay của
Trung Cộng thì có lẽ Việt Nam đã mất vì thứ sĩ diện hảo ấy của người cộng sản.
Lớp “sương tan đầu ngõ” cũng chỉ là một
thứ khăn tang che phủ một ngôi mộ tập thể trong nhà...Tôi nghĩ đến cái chết của
tình người, của sự cảm thông, của lòng quảng đại, của tất cả những đức tính tốt
đẹp trong bản tính con người...mà sự tham tàn, dối trá và thói sĩ diện hão của
người cộng sản đã tạo ra cho xã hội Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét