Chu Thập
22.12.15
Tạp chí Time đã bầu chọn Nữ thủ tướng Angela
Merkel của Đức làm người của năm 2015. Không hiểu sao mỗi lần nhìn vào gương mặt
của người phụ nữ quyền lực nhứt thế giới này tôi luôn luôn nghĩ đến hai chữ “Phúc Hậu”. So sánh bà với Nữ thủ tướng Margaret Thatcher (1925-2013), người được mệnh
danh là “bà đầm sắt” của nước Anh, tôi thường nghĩ rằng trong khi bà Thatcher cai
trị với sự cứng rắn của bàn tay sắt, thì đương kim nữ thủ tướng Đức lại nhấn mạnh
đến đức độ của một hiền mẫu hơn. Các lý thuyết gia về chính trị học luôn cho rằng
“tài” vẫn là yếu tố quan trọng trong nghệ thuật trị quốc. Nhưng cái lẽ thường lại
luôn mách bảo tôi rằng có tài mà không có đức, như lịch sử đã chứng minh, dễ
đưa các lãnh tụ chính trị đến chỗ độc tài. Dĩ nhiên trong một quốc gia dân chủ
như Hoa Kỳ chẳng hạn, có lẽ sẽ chẳng bao
giờ có đất sống cho bất cứ một nhà độc tài nào. Tuy nhiên, theo dõi cuộc chạy
đua vào Tòa Bạch Ốc hiện nay, tôi cứ thấy lo nếu tỷ phú Donald Trump, người
thích tuyên bố vung vít với giọng điệu nghe
rất “phát xít” mà xem ra chẳng màng đến bất cứ giá trị nhân bản và đạo đức nào,
chẳng may trở thành tổng thống thứ 44 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Lo quá khi nhận
thấy hiện nay ông tỷ phú này lại dẫn đầu trong hàng ngũ các ứng cử viên tổng thống
của Đảng Cộng Hòa. Chợt nghĩ đến lời ta thán của Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939): “Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn,
cho nên quân nó dễ làm quan”. Người dân Đức đã có một thời “ngu muội” cho nên mới
bầu một người như Adolf Hitler lên cai trị đất nước.
Ngày nay, tôi ngưỡng mộ trình độ dân trí của người dân Đức khi chọn một người
và nhứt là một người đàn bà đến từ một nước cựu cộng sản làm thủ tướng. Cộng
Hòa Dân Chủ Đức, tức Đông Đức Cộng Sản, nơi bà Angela Merkel đã lớn lên không hề
là nước dân chủ và lại càng không phải là một “Cộng Hòa” theo đúng nghĩa. Như
chủ bút của tạp chí Time, bà Nancy Gibbs đã mô tả, Đông Đức là “một màn trình
diễn kinh dị theo kiểu Orwell (tức như được mô tả trong các tác phẩm của Tiểu thuyết gia Anh George Orwell (1903-1950), đặc biệt là
cuốn “Trại súc vật” (Animal Farm). Đây
là nơi mà Bức Màn Sắt đã được diễn tả theo từng chữ qua Bức Tường Bá Linh”. Là
con của một vị mục sư tin lành, lại ly dị chồng và nhứt là gia nhập một Đảng
chính trị trong đó phần đông đảng viên là người Công giáo, bà Merkel đã được
người dân Đức tín nhiệm đến độ trao trách nhiệm cai trị đất nước liên tiếp
trong 3 nhiệm kỳ. Trong khi Đức Quốc đã trải qua 70 năm để thử nghiệm đủ mọi liều
thuốc chống lại chủ nghĩa dân tộc, quân phiệt và diệt chủng, thì bà Merkel lại
đề ra một con đường khác. Đó là con đường mà chủ bút tạp chí Time đã tóm tắt
trong ba chữ: “Nhân đạo, quảng đại và khoan nhượng” (humanity, generosity, tolerance). Chính cái kinh nghiệm của ích kỷ, hận
thù, độc ác trong Chế độ Cộng sản Đông Đức đã
mang lại cho bà niềm xác tín về những giá trị ấy. Nắm quyền lực trong tay, đối
nội cũng như đối ngoại, bà luôn hành động và cư xử theo những giá trị ấy. Chỉ cần
nhìn vào cách bà đối phó với cuộc khủng hoảng người tầm trú trong thời gian vừa
qua cũng đủ để thấy được sức mạnh mà những giá trị trên đây mang lại cho riêng
bà và toàn thể dân Đức.
“Nhân đạo,
quảng đại và khoan nhượng” là nét nổi bật
trong dung mạo của người phụ nữ quyền lực nhứt thế giới hiện nay. Và nét nổi bật
ấy lại được chiếu sáng trong đôi mắt của bà. Đây cũng chính là nhận xét của Tạp chí Time. Thật vậy, theo bà Nancy Gibbs, chân dung của bà Merkel qua nét vẽ của Họa sĩ Anh Colin Davidson, như được in ở trang bìa của tạp
chí Time số ra ngày 21 tháng 9 vừa qua, được tóm gọn trong ánh mắt của bà. Nếu
như chúng ta thường nói, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn và nếu như “Nhân
đạo, quảng đại và khoan nhượng” là những giá trị làm nên tòa nhà nhân cách và đường lối lãnh đạo của bà Merkel thì có lẽ chỉ cần nhìn vào
đôi mắt của bà để nhận ra điều đó. Có lẽ bà Merkel có đôi mắt “biết nói”. Bà
nói nhiều bằng đôi mắt của bà hơn bằng lời nói. Và những lời nói toát ra từ đôi
mắt ấy chỉ có thể là “nhân đạo, quảng đại và khoan nhượng”.
Tôi không biết có họa sĩ nào đã lột tả được đôi mắt của ông Hồ Chí Minh
chưa. Nhưng nếu như đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn thì chú mục cho thật kỹ có lẽ
người ta chỉ có thể nhìn thấy ở đó sự gian dối, dã man và độc ác mà thôi. Tôi
mường tượng ra đôi mắt ấy khi đọc đoạn mô tả của Triết gia Trần Đức Thảo về một cuộc đấu tố trong thời cải cách ruộng đất mà
ông đã tham gia với tư cách là một thành viên của một đội cải cách (Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê, Trần Đức Thảo, Những Lời Trăng Trối, Tổ hợp
Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ 2014 trg 133-134). Theo ông Trần Đức Thảo, buổi đấu tố
lần đầu tiên đã thất bại vì các đội viên cải cách chưa tỏ ra “quán triệu” đường
lối cải cách do quan thày Trung Cộng vạch ra. Do đó, trong một buổi họp “kiểm
điểm”, một cố vấn Trung Quốc đã được mời đến để “dạy dỗ”. Và thông qua một người
thông ngôn, viên cố vấn Trung Quốc về cải
cách ruộng đất này đã yêu cầu “đội cải cách” phải triệt để noi gương ông Hồ Chí
Minh để tích cực thực hiện “công cuộc” cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh đã tỏ ra
tích cực ở chỗ vừa ra lệnh giết bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân đã tặng cho
“Cách Mạng” cả trăm cây vàng, vừa cải trang để tận mắt chứng kiến vụ hành quyết
bà và sau đó đã khóc lóc thảm thiết cho
số phận của người đàn bà này. Ai cũng biết
rằng những giọt nước mắt cá sấu của ông Hồ Chí Minh có lẽ chỉ tuôn trào để che
đậy nhân cách giả dối, độc ác, tàn bạo của ông mà thôi. Chỉ tội nghiệp cho các
“cháu ngoan Bác Hồ”. Ánh mắt đơn sơ, hồn nhiên, trong trắng của các em đã bị vẩn
đục khi nhìn vào đôi mắt ấy.
Trọng tâm của Lễ Giáng Sinh là một Hài Nhi. Mỗi dịp Lễ Giáng Sinh tôi thường
chiêm nghiệm về đôi mắt của trẻ thơ. Với tôi, trẻ em nào, dù thuộc màu da, chủng
tộc nào, cũng đều là thiên thần cả. Trẻ em là hiện thân của lương tâm chưa hề bị
che khuất bởi bất cứ áng mây nào của dối trá và độc ác. Hài Nhi Giêsu đẹp cỡ
nào thì cũng chỉ có trong trí tưởng tượng của tôi. Nhưng hằng tuần trước mắt
tôi, hài nhi đẹp nhứt mà tôi không ngừng chiêm ngắm là cô cháu 2 tuổi của một
người bạn của tôi. Tôi không biết tại sao giữa tôi và cô bé này lại có một mối
thâm tình đặc biệt. Tôi thích nhìn đôi mắt cháu. Cháu thích ngồi bên tôi và
chơi đùa với tôi. Giữa hai bên sự tri giao diễn ra không bằng ngôn ngữ bình thường của người lớn. Tôi nghĩ
đây là một phép lạ: trẻ con dạy rằng con người có thể thông tin liên lạc, cảm
thông mà không cần phải nói nhiều hay phải thông qua lời nói.
Năm 1995, tâm lý gia Mỹ Gary Chapman đã cho xuất bản một cuốn sách nổi tiếng
với tựa đề “The Five Love Languages: How to Express Heartfelt Commitment to
Your Mate”
(Năm ngôn ngữ của tình yêu: làm cách nào để nói lên tình
yêu thâm sâu của bạn với người bạn tình). 5 ngôn ngữ tình yêu được tác giả
Chapman phân tích là : quà tặng, thời giờ dành cho nhau, những lời nói chân
tình, những hành động phục vụ và sự gần gũi thân mật. Theo ông, không phải tất
cả mọi người đều nói cùng một ngôn ngữ của tình yêu. Và có lẽ mỗi nền văn hóa
cũng có ngôn ngữ tình yêu riêng.
Lúc nhỏ, không hiểu tại sao tôi cứ thắc mắc trong khi tôi gọi bậc sinh
thành của tôi là “cha mẹ” còn một số bạn bè của tôi lại gọi cha mẹ họ là “ba
má”. Tôi cứ nghĩ rằng “ba má” là hai tiếng gọi “nhõng nhẽo” chỉ dành cho con
nít. Tôi có lối suy nghĩ như thế là bởi vì trong ký ức của tôi dường như chưa
có lần nào cha mẹ tôi đã dành cho tôi một sự âu yếm đặc biệt nào. Có lẽ vì vậy
mà lớn lên một chút, khi được mấy ông anh bà chị tìm cách vuốt ve, “nựng nịu”
là tôi chống trả kịch liệt. Có lẽ anh chị tôi đã có một ngôn ngữ tình yêu khác
với cha mẹ tôi. Tôi không bao giờ nghi ngờ về tình thương của cha mẹ tôi đối với
tôi. Cha mẹ tôi thương tôi cũng như anh chị em tôi mà chẳng cần phải nói những
lời ngọt ngào của tình thương. Cũng như hầu hết các bậc cha mẹ Á Châu ngày xưa,
tình thương của cha mẹ tôi đối với chúng tôi không được bộc lộ bằng lời nói, mà
được diễn tả qua những cử chỉ chăm sóc và nhứt là cuộc sống hy sinh. Có lẽ tôi
đã trưởng thành trong thứ trường học về tình yêu ấy và ngôn ngữ tình yêu chính
của tôi có lẽ là sự hiện diện, những cử chỉ phục vụ hơn là lời nói. Tôi luôn cảm
thấy vụng về khi phải nói lên những lời chia buồn về sự mất mát mà người khác
đang phải chịu đựng.Tôi cũng cảm thấy lúng túng khi phải cố gắng dùng lời nói để
diễn tả những cảm xúc chân thực của mình. Đối lại, tôi cũng luôn cảm nhận được
tình thương của người khác qua sự hiện diện thinh lặng và cảm thông cũng như những
cử chỉ quan tâm và săn sóc của họ.
Cô cháu của người bạn tôi dường như cũng muốn dạy tôi điều đó chăng. Cháu
không nói bằng lời nói cho bằng ánh mắt và sự hiện diện của cháu.
Ngôn ngữ tình yêu thật kỳ diệu. Người Do Thái tin rằng Thượng Đế chỉ nói với
dân tộc của họ và Ngài chỉ nói bằng tiếng Hy Bá Lai. Còn với người Hồi Giáo, Đấng
Allah cũng chỉ nói bằng tiếng Á Rập mà thôi. Tôi tin có một Thượng Đế và tên gọi
đúng đắn nhứt của Ngài chỉ có thể là Tình Yêu. Ngài không chỉ nói bằng tiếng Do
Thái hay Á Rập. Ngài cũng chẳng nói chỉ bằng 5 ngôn ngữ tình yêu như chuyên gia
tâm lý Chapman đã phân tích. Ngài nói bằng đủ mọi loại ngôn ngữ nhưng có lẽ tất
cả mọi ngôn ngữ tình yêu của Ngài đều qui về 3 chữ: “nhân đạo, quảng đại và khoan nhượng”.
Nếu như Thượng Đế có “con mắt” thì có lẽ con mắt ấy luôn chiếu sáng bằng 3 chữ ấy.
Giáng Sinh năm nay, nhìn chân dung của Thủ tướng Đức
Angela Merkel được tạp chí Time bầu chọn làm “Người của Năm 2015” và chiêm ngắm
ánh mắt cô cháu gái của người bạn của tôi, tôi thấy như nghe được lời nhắn gọi
thiết yếu của ngày lễ này: sức mạnh đích thực của thế giới ngày nay không nằm
trong vũ khí hay những phát minh khoa học ngày càng tinh vi, mà chính là biết
thực thi lòng “nhân đạo, quảng đại và khoan nhượng”. Đó cũng chính là bí quyết
của bình an và hạnh phúc đích thực của con người. Lời chúc mừng Giáng Sinh
“Merry Christmas” sẽ sáo rỗng và ngoài môi mép nếu “thiện tâm” muốn sống “nhân
đạo, quảng đại và khoan nhượng” chưa trở thành ngôn ngữ đích thực của
tình yêu.