Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

“Hãy Tiếp Tục Khao Khát, Hãy Tiếp Tục Dại Khờ”



Chu Thập
12.10.11



“Hãy tiếp tục khao khát, Hãy tiếp tục dại khờ.”: Đây là lời khuyên mà ông Steve Jobs, đồng sáng lập viên và cựu giám đốc điều hành công ty Apple, đã mượn để kết thúc bài nói chuyện của ông với các sinh viên của trường đại học Stanford, California, Hoa kỳ dạo tháng 6 năm 2005. Thiên tài qua đời hôm 5 tháng 10 vừa qua này giải thích rằng câu nói trên đây được in ở bìa sau ấn bản cuối cùng của cuốn danh mục “The Whole Earth Catalog” xuất bản tại Hoa kỳ vào năm 1974. Ảnh chụp một con đường miền quê trong ánh bình minh, lọai đường quê mà người ta có thể đi chơi bằng cách quá giang xe nếu thích mạo hiểm. Bên trên là dòng chữ “Stay Hungry, Stay Foolish.” (Hãy tiếp tục khao khát. Hãy tiếp tục dại khờ)
Mấy hôm nay, cứ mỗi lần ngẫm nghĩ về cái chết của nhà độc tài Moammar Gadhafi, tôi lại nhớ đến thiên tài Steve Jobs và lời khuyên trên của ông. Cũng trong bài nói chuyện này, ông đã để lại những suy tư mà tôi không thể không nghiền ngẫm: “Chẳng có ai muốn chết. Ngay cả những nguời muốn được lên thiên đàng cũng không muốn chết để được lên đó. Thế nhưng cái chết vẫn là điểm hẹn mà tất cả chúng ta đều phải đến. Không có ai từng thoát khỏi điều đó. Và đó chính là chân lý cuộc đời, bởi vì dường như Cái Chết chính là sự sáng tạo tuyệt vời nhất của Cuộc sống. Nó là tác nhân cho những thay đổi trong Cuộc sống. Nó loại đi những người già để mở đường cho những người trẻ.” (Đào Trường Phúc, VL 14/10/2011). Tôi nghĩ đây mới thực sự là di sản mà Steve Jobs muốn để lại cho hậu thế.
Có lẽ nhà độc tài Gadhafi đã không kịp nghe lời khuyên trên của Steve Jobs nên mới phải ra đi một cách tức tưởi và “đáng thương” như các hình ảnh mà tôi được thấy tràn ngập trên các mạng truyền thông đã có thể gợi lên cho tôi.
Như hầu hết mọi người có cái nhìn và suy nghĩ bình thường trên thế giới này, tôi “ghét cay ghét đắng” những nhà độc tài. Trong lịch sử nhân loại, tôi nhớ tên các nhà độc tài hơn là những nhà hiền triết và các bậc vĩ nhân. Xa tắp trong mù khơi của lịch sử là cái tên Tần Thủy Hoàng. Cứ nhắc đến tên đó thì tôi lại thấy lòng dạ như sôi sục lên. Cách đây đến cả hai ngàn năm và ở mãi đâu bên trời Tây, vậy mà cái tên của bạo chúa Nero của đế quốc La mã vẫn cứ ám ảnh tôi. Nói chi đến những đồ tể trong lịch sử hiện đại như Hitler và nhứt là gắn liền với lịch sử dân tộc như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot...và dĩ nhiên, tội đồ dân tộc Hồ chí Minh.
Mới đây, trong chuyến về thăm quê hương, chỉ cần nghe hỏi “đã vào Ba Đình để viếng lăng Hồ chủ tịch chưa?” thì tôi đã muốn “điên tiết” lên rồi. Một trong những điểm mà các tour du lịch cố tình dẫn người ta đến chính là cái lăng thổ tả này. Đi qua các nẻo đường đất nước, bị “cưỡng bách” để nhìn thấy những khẩu hiệu ca ngợi, những tượng đài của tên tội đồ này chưa đủ sao, lại còn bắt tôi xếp hàng, nghiêm trang như vào một khu thánh địa để “chiêm ngưỡng” cái xác ướp thối tha ấy!
Quả thật, tôi “thù ghét” những kẻ gây ra bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân loại, mà còn được đưa lên bệ thờ. Trái lại, đứng trước cái chết thảm thương, dù của một bạo chúa, tôi vẫn thấy dấy lên lòng thương hại và cảm thương. Với tôi, chẳng có gì thảm thương cho bằng sự ngã ngựa, dù là ngã ngựa của một đồ tể. Năm 2003, hình ảnh của một Saddam Hussein bị lôi kéo ra từ một hầm trú ẩn, bị tước đoạt mọi quyền lực giả tạo, bị nhục mạ và cuối cùng bị xử tử, không khỏi làm cho tôi đau lòng. Và mới đây, cái chết “đẫm máu” và tàn nhẫn của một kẻ đã từng hét ra lửa như đại tá Gadhafi trước khi bị chính những kẻ mà ông gọi là “chuột bọ” săn đuổi, phải trốn chui trốn nhủi như một con “chuột cống” lại càng làm cho tôi xót thương hơn.
Tôi xót thương cho đại tá Gadhafi, vì trong suốt 42 năm cai trị Libya bằng bàn tay độc tài khát máu và cuồng lọan, ông đã hoàn toàn sống trong “hoang tưởng”. Hoang tưởng vì nghĩ rằng cái đầu của ông đủ lớn để suy nghĩ thế cho bao nhiêu khối óc của dân tộc và cả thế giới. Hoang tưởng vì tin rằng mình sẽ vĩnh viễn ngồi trên quyền lực xây dựng trên lò vũ khí giết người hàng lọat và khủng bố. Hoang tưởng vì nghĩ rằng ông và gia đình ông sẽ nắm chặt trong tay tài sản gần 200 tỷ Mỹ kim mà ông đã cướp lấy của đất nước. Nhưng hoang tưởng nhứt có lẽ là ấp ủ giấc mộng sẽ “bất tử” trên trần gian này để mà cai trị và hưởng thụ quyền lực và tiền của. Hoang tưởng hơn nữa khi chính sự hoang tưởng của ông luôn được nuôi dưỡng bằng sự tung hứng của đám theo đóm ăn tàn xung quanh. Thật buồn cho cả một đất nước khi con người mà cố tổng thống Ronald Reagan đã không biết phải dùng một từ nào khác hơn để mô tả sự hoang tưởng và ngông cuồng cho bằng danh xưng “con chó điên của Trung Đông”, lại được tùng phục và xưng tụng trong suốt bao nhiêu năm trời.
Thật ra, dường như sự cai trị của nhà độc tài hay chế độ độc tài nào cũng đều được xây dựng trên hoang tưởng và sự hoang tưởng của họ, nói theo kiểu nói quen thuộc của người cộng sản Việt nam, lại được “hà hơi tiếp sức” bởi đám đông. Ai cũng biết rằng một mình Hitler không có đủ ba đầu sáu tay để tiêu diệt đến cả 6 triệu người Do thái. Ai cũng đủ hiểu biết và suy nghĩ để nhận ra rằng một mình Stalin, một mình Mao Trạch Đông, một mình Pol Pot không thể sát tế đến hàng trăm triệu đồng bào ruột thịt vô tội của mình để xây dựng “xã hội chủ nghĩa” không tưởng. Và dĩ nhiên, với cái chủ nghĩa vô nhân đạo ấy, một mình Hồ chí Minh cũng không thể “giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ”: suốt hơn 60 năm nay, có cả hàng hàng lớp lớp trí trức sẵn sàng làm con thiêu thân nhào vào cái lò lửa rực hận thù ấy và ngày nay còn biết bao nhiêu con diều hâu vẫn tiếp tục bám lấy cái xác chết thối tha của chủ nghĩa ấy để mà sống còn.
Trong chuyến về thăm quê hương vừa qua, điều khiến tôi buồn nhứt là thái độ mà tôi gọi là “hội chứng Stockholm” (yêu và bênh vực cho kẻ bắt cóc mình) nơi một số người Việt nam trong nước.
Năm 2009, tổ chức New Economics Foundation cho công bố kết quả một cuộc thăm dò về chỉ số hạnh phúc của các dân tộc trên thế giới. Quả là bất ngờ khi một nước chẳng phải là giàu nhứt và cũng chẳng có một hệ thống an sinh xã hội tốt nhứt thế giới như Costa Rica tại Trung Mỹ lại là nước có đến 85% dân số nói rằng họ rất hạnh phúc. Được chú ý không kém là Việt nam, đứng hàng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu Á châu về chỉ số hạnh phúc, với 65% dân số tuyên bố rằng họ “hạnh phúc và bằng lòng về cuộc sống”.
Dĩ nhiên, nếu ở Việt nam chỗ nào cũng có tiệm cà phê, hàng ăn và quán nhậu và nếu những người thực hiện cuộc thăm dò chỉ đi gợi chuyện với những người thuộc giai cấp nhà giàu mới hay những người có đồng nào “nhậu” đồng nấy...thì kết quả cuộc thăm dò chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Tôi đã có dịp làm thính giả cũng như hỏi chuyện với các tài xế xe ôm, xe xích lô, xe buýt, xe taxi hay những người đi bán vé số “có mặt trên tầng cây số”. Bức tranh xã hội Việt nam được giai cấp này phản ảnh hoàn toàn trái ngược: nếu không phải là những lời rủa sả thậm tệ thì cũng là một chuỗi những lời ta thán mà trời cao cũng không thấu nổi.
Nhưng ở Việt nam dường như nhiều người không có được cái tai thính đủ để nghe những tiếng “thở dài của những người bị áp bức” (nói theo ngôn ngữ của ông “tổ” Các Mác) hoặc có mắt mà không nhìn thấy hay không muốn nhìn thấy những nỗi khổ đau của đồng bào ruột thịt. Nhiều bạn bè của tôi nằm trong số những người có mắt có tai “có vấn đề” này. Dĩ nhiên, họ là thành phần tương đối khá giả trong xã hội Việt nam hiện nay. Một số là đại gia, một số ăn nên làm ra nhờ móc ngoặc với chế độ. Đây chắc chắn là những người mà tổ chức News Economics Foundation đã hỏi ý kiến về cuộc sống hiện nay trong xã hội XHCN Việt nam. Trong câu chuyện trao đổi, hầu như người bạn nào của tôi trong nhóm này cũng đều tỏ ra “hài lòng” với chế độ hiện tại. Họ bảo tôi: cứ nhìn những gì mà chế độ cộng sản đã và đang làm được! Từ một nước nghèo, Việt nam đã trở thành nước xuất cảng gạo lớn thứ hai trên thế giới! (Thế mà tôi không tìm được nhà hàng nào có gạo bằng như ở nhà) Những chiếc cầu treo vĩ đại và hệ thống đường “cao tốc” hiện nay không đủ làm bằng chứng cho sự phát triển vượt bực của Việt Nam hay sao?  Cuộc sống hiện tại của riêng họ không tốt hơn trước kia sao? Đi du lịch qua các nước láng giềng như cơm bữa mà không sướng sao?
Là “dân”công giáo, cho nên trong chuyến đi Việt nam vừa qua, tôi thường để mắt quan sát các thánh đường. Nói không ngoa, may ra chỉ có các thánh đường và cơ sở của Giáo hội mới mon men “tranh” nổi với các doanh trại quân đội nhân dân, công an, đảng bộ...về bề thế và sự hoành tráng. Tôi có ghé một người bạn nay là linh mục quản nhiệm một giáo xứ lớn ở Miền Trung. Ông đưa tôi đi một vòng ngôi thánh đường đồ sộ nguy nga và hiện đại mà có lẽ ông muốn xem như một công trình để đời. Chiều đến, ông chở tôi trên chiếc “Four Wheel” mới toanh đến một quán nhậu khuất giữa rừng xoài. Ở đây tôi lại chứng kiến “uy thế” của ông bạn tôi: tất cả những thực khách đang ngồi nhậu đều là công an, trưởng phòng, quan chức của chế độ. Họ chào vị linh mục chẳng khác chào một bạn nhậu quen thuộc!
Dĩ nhiên, với vị linh mục bạn tôi, có lẽ chẳng có thời nào “sướng” cho bằng thời này. Chưa bao giờ Giáo hội có nhiều nhà thờ lớn như thời này. Chưa bao giờ Giáo hội lại gởi người đi du học nước ngoài nhiều như lúc này.
Không nói đến gần 3 triệu đảng viên cộng sản và đủ loại quan chức lớn bé ở Việt nam hiện nay, những thành phần “hài lòng” với chế độ hiện nay không khỏi làm cho tôi liên tưởng đến những nạn nhân của “hội chứng Stockholm”. Nhưng gợi hình và dễ hiểu hơn, tôi nghĩ đến mấy chị gà vịt tôi nuôi trong chuồng. Lúc nào cũng được ăn uống đầy đủ, cho nên có lẽ chúng vẫn thích lẩn quẩn trong cái chuồng chật hẹp hơn là cái vườn thông thoáng nhưng phải bươi móc từng con sâu con bọ.
Con vật đi tìm no đủ cho bản thân như là bản năng sinh tồn. Con người hơn con vật vì không những tìm cho mình mà còn khao khát cho người khác. Khi người thanh niên Mohamed Bouazizi, người thanh niên Tunisia 26 tuổi nổi điên vì bị xử bất công đến nỗi tự thiêu. Người ta gọi là một hành động dại khờ, nhưng nhìn lại, nếu không có cái dại khờ đó, thì làm sao có được một loạt các cuộc cách mạng lật đổ các nhà độc tài ở Trung Đông, mà gần nhứt là cái chết của Gadhafi.
Khi đại tá Gadhafi nằm xuống, nhiều người xem đây là một hồi chuông báo tử cho các nhà độc tài ở Trung đông và xa hơn một chút là một số nước Á châu trong đó có Việt nam. Tôi không quá lạc quan để chờ đợi điều đó ở trên quê hương, bởi vì cái chế độ này hiện được chống đỡ không những bởi các đảng viên, quan chức và những tư bản mới sống nhờ “luật lệ" bẩn thỉu của chế độ, mà còn được nhiều người biện minh và ủng hộ  khi vô tình nhắm mắt làm ngơ trước vô số những vi phạm nhân quyền và những khốn khổ không thể tả xiết mà bao nhiêu đồng bào ruột thịt đang gánh chịu. Nhiều người bạn tôi còn cho rằng không lên tiếng, không tranh đấu là một thái độ khôn ngoan vì theo họ có làm thì cũng “chẳng đi đến đâu, chỉ thiệt thân”.
Trong khi tôi còn chưa hiểu Apple là cái gì thì trong túi mấy ông bạn tôi đều rủng rỉnh một cái iphone. Có không phải để xử dụng những tiện nghi của nó cho bằng để “có với người ta”. Tôi mong sao cho các bạn tôi và ngày càng có nhiều người ở Việt nam không chỉ biết chạy theo mấy cái “Tôi” (i: intelligent/I) mà thiên tài Steve Jobs đã sáng chế, mà còn biết lắng nghe lời khuyên của ông “Hãy tiếp tục khao khát. Hãy tiếp tục dại khờ” để khao khát những giá trị cao hơn một chút cơm thừa canh cặn của chế độ .Đó là khao khát suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình chứ không bằng cái đầu của người khác, khao khát nói lên điều mình suy nghĩ chứ không chỉ trở thành cái loa của những người đang hét ra lửa. Và sẵn sàng khờ dại để dám cuồng nộ đứng lên đạp đổ cái chế độ vô nhân đạo ấy.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét