Chu Thập
12.10.11

Mấy hôm nay, cứ mỗi lần ngẫm nghĩ về cái
chết của nhà độc tài Moammar Gadhafi, tôi lại nhớ đến thiên tài Steve Jobs và lời
khuyên trên của ông. Cũng trong bài nói chuyện này, ông đã để lại những suy tư
mà tôi không thể không nghiền ngẫm: “Chẳng
có ai muốn chết. Ngay cả những nguời muốn được lên thiên đàng cũng không muốn
chết để được lên đó. Thế nhưng cái chết vẫn là điểm hẹn mà tất cả chúng ta đều
phải đến. Không có ai từng thoát khỏi điều đó. Và đó chính là chân lý cuộc đời,
bởi vì dường như Cái Chết chính là sự sáng tạo tuyệt vời nhất của Cuộc sống. Nó
là tác nhân cho những thay đổi trong Cuộc sống. Nó loại đi những người già để mở
đường cho những người trẻ.” (Đào Trường Phúc, VL 14/10/2011). Tôi nghĩ đây
mới thực sự là di sản mà Steve Jobs muốn để lại cho hậu thế.
Có lẽ nhà độc tài Gadhafi đã không kịp
nghe lời khuyên trên của Steve Jobs nên mới phải ra đi một cách tức tưởi và “đáng
thương” như các hình ảnh mà tôi được thấy tràn ngập trên các mạng truyền thông
đã có thể gợi lên cho tôi.
Như hầu hết mọi người có cái nhìn và suy
nghĩ bình thường trên thế giới này, tôi “ghét cay ghét đắng” những nhà độc tài.
Trong lịch sử nhân loại, tôi nhớ tên các nhà độc tài hơn là những nhà hiền triết
và các bậc vĩ nhân. Xa tắp trong mù khơi của lịch sử là cái tên Tần Thủy Hoàng.
Cứ nhắc đến tên đó thì tôi lại thấy lòng dạ như sôi sục lên. Cách đây đến cả
hai ngàn năm và ở mãi đâu bên trời Tây, vậy mà cái tên của bạo chúa Nero của đế
quốc La mã vẫn cứ ám ảnh tôi. Nói chi đến những đồ tể trong lịch sử hiện đại
như Hitler và nhứt là gắn liền với lịch sử dân tộc như Lenin, Stalin, Mao Trạch
Đông, Pol Pot...và dĩ nhiên, tội đồ dân tộc Hồ chí Minh.
Mới đây, trong chuyến về thăm quê hương,
chỉ cần nghe hỏi “đã vào Ba Đình để viếng lăng Hồ chủ tịch chưa?” thì tôi đã muốn
“điên tiết” lên rồi. Một trong những điểm mà các tour du lịch cố tình dẫn người
ta đến chính là cái lăng thổ tả này. Đi qua các nẻo đường đất nước, bị “cưỡng
bách” để nhìn thấy những khẩu hiệu ca ngợi, những tượng đài của tên tội đồ này
chưa đủ sao, lại còn bắt tôi xếp hàng, nghiêm trang như vào một khu thánh địa để
“chiêm ngưỡng” cái xác ướp thối tha ấy!
Quả thật, tôi “thù ghét” những kẻ gây ra
bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân loại, mà còn được đưa lên bệ thờ. Trái lại,
đứng trước cái chết thảm thương, dù của một bạo chúa, tôi vẫn thấy dấy lên lòng
thương hại và cảm thương. Với tôi, chẳng có gì thảm thương cho bằng sự ngã ngựa,
dù là ngã ngựa của một đồ tể. Năm 2003, hình ảnh của một Saddam Hussein bị lôi
kéo ra từ một hầm trú ẩn, bị tước đoạt mọi quyền lực giả tạo, bị nhục mạ và cuối
cùng bị xử tử, không khỏi làm cho tôi đau lòng. Và mới đây, cái chết “đẫm máu”
và tàn nhẫn của một kẻ đã từng hét ra lửa như đại tá Gadhafi trước khi bị chính
những kẻ mà ông gọi là “chuột bọ” săn đuổi, phải trốn chui trốn nhủi như một
con “chuột cống” lại càng làm cho tôi xót thương hơn.
Tôi xót thương cho đại tá Gadhafi, vì
trong suốt 42 năm cai trị Libya bằng bàn tay độc tài khát máu và cuồng lọan,
ông đã hoàn toàn sống trong “hoang tưởng”. Hoang tưởng vì nghĩ rằng cái đầu của
ông đủ lớn để suy nghĩ thế cho bao nhiêu khối óc của dân tộc và cả thế giới.
Hoang tưởng vì tin rằng mình sẽ vĩnh viễn ngồi trên quyền lực xây dựng trên lò vũ
khí giết người hàng lọat và khủng bố. Hoang tưởng vì nghĩ rằng ông và gia đình
ông sẽ nắm chặt trong tay tài sản gần 200 tỷ Mỹ kim mà ông đã cướp lấy của đất
nước. Nhưng hoang tưởng nhứt có lẽ là ấp ủ giấc mộng sẽ “bất tử” trên trần gian
này để mà cai trị và hưởng thụ quyền lực và tiền của. Hoang tưởng hơn nữa khi
chính sự hoang tưởng của ông luôn được nuôi dưỡng bằng sự tung hứng của đám
theo đóm ăn tàn xung quanh. Thật buồn cho cả một đất nước khi con người mà cố tổng
thống Ronald Reagan đã không biết phải dùng một từ nào khác hơn để mô tả sự
hoang tưởng và ngông cuồng cho bằng danh xưng “con chó điên của Trung Đông”, lại được tùng phục và xưng tụng trong
suốt bao nhiêu năm trời.
Thật ra, dường như sự cai trị của nhà độc
tài hay chế độ độc tài nào cũng đều được xây dựng trên hoang tưởng và sự hoang
tưởng của họ, nói theo kiểu nói quen thuộc của người cộng sản Việt nam, lại được
“hà hơi tiếp sức” bởi đám đông. Ai cũng biết rằng một mình Hitler không có đủ
ba đầu sáu tay để tiêu diệt đến cả 6 triệu người Do thái. Ai cũng đủ hiểu biết
và suy nghĩ để nhận ra rằng một mình Stalin, một mình Mao Trạch Đông, một mình
Pol Pot không thể sát tế đến hàng trăm triệu đồng bào ruột thịt vô tội của mình
để xây dựng “xã hội chủ nghĩa” không tưởng. Và dĩ nhiên, với cái chủ nghĩa vô
nhân đạo ấy, một mình Hồ chí Minh cũng không thể “giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ”: suốt hơn 60 năm nay, có cả
hàng hàng lớp lớp trí trức sẵn sàng làm con thiêu thân nhào vào cái lò lửa rực
hận thù ấy và ngày nay còn biết bao nhiêu con diều hâu vẫn tiếp tục bám lấy cái
xác chết thối tha của chủ nghĩa ấy để mà sống còn.
Trong chuyến về thăm quê hương vừa qua,
điều khiến tôi buồn nhứt là thái độ mà tôi gọi là “hội chứng Stockholm” (yêu và bênh vực cho kẻ bắt cóc mình) nơi một
số người Việt nam trong nước.
Năm 2009, tổ chức New Economics
Foundation cho công bố kết quả một cuộc thăm dò về chỉ số hạnh phúc của các dân
tộc trên thế giới. Quả là bất ngờ khi một nước chẳng phải là giàu nhứt và cũng
chẳng có một hệ thống an sinh xã hội tốt nhứt thế giới như Costa Rica tại Trung
Mỹ lại là nước có đến 85% dân số nói rằng họ rất hạnh phúc. Được chú ý không
kém là Việt nam, đứng hàng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu Á châu về chỉ số hạnh
phúc, với 65% dân số tuyên bố rằng họ “hạnh phúc và bằng lòng về cuộc sống”.
Dĩ nhiên, nếu ở Việt nam chỗ nào cũng có
tiệm cà phê, hàng ăn và quán nhậu và nếu những người thực hiện cuộc thăm dò chỉ
đi gợi chuyện với những người thuộc giai cấp nhà giàu mới hay những người có đồng
nào “nhậu” đồng nấy...thì kết quả cuộc thăm dò chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Tôi đã có dịp làm thính giả cũng như hỏi
chuyện với các tài xế xe ôm, xe xích lô, xe buýt, xe taxi hay những người đi
bán vé số “có mặt trên tầng cây số”. Bức tranh xã hội Việt nam được giai cấp
này phản ảnh hoàn toàn trái ngược: nếu không phải là những lời rủa sả thậm tệ
thì cũng là một chuỗi những lời ta thán mà trời cao cũng không thấu nổi.
Nhưng ở Việt nam dường như nhiều người
không có được cái tai thính đủ để nghe những tiếng “thở dài của những người bị áp bức” (nói theo ngôn ngữ của ông “tổ”
Các Mác) hoặc có mắt mà không nhìn thấy hay không muốn nhìn thấy những nỗi khổ
đau của đồng bào ruột thịt. Nhiều bạn bè của tôi nằm trong số những người có mắt
có tai “có vấn đề” này. Dĩ nhiên, họ là thành phần tương đối khá giả trong xã hội
Việt nam hiện nay. Một số là đại gia, một số ăn nên làm ra nhờ móc ngoặc với chế
độ. Đây chắc chắn là những người mà tổ chức News Economics Foundation đã hỏi ý
kiến về cuộc sống hiện nay trong xã hội XHCN Việt nam. Trong câu chuyện trao đổi,
hầu như người bạn nào của tôi trong nhóm này cũng đều tỏ ra “hài lòng” với chế
độ hiện tại. Họ bảo tôi: cứ nhìn những gì mà chế độ cộng sản đã và đang làm được!
Từ một nước nghèo, Việt nam đã trở thành nước xuất cảng gạo lớn thứ hai trên thế
giới! (Thế mà tôi không tìm được nhà hàng nào có gạo bằng như ở nhà) Những chiếc
cầu treo vĩ đại và hệ thống đường “cao tốc” hiện nay không đủ làm bằng chứng
cho sự phát triển vượt bực của Việt Nam hay sao? Cuộc sống hiện tại của riêng họ không tốt hơn
trước kia sao? Đi du lịch qua các nước láng giềng như cơm bữa mà không sướng
sao?
Là “dân”công giáo, cho nên trong chuyến
đi Việt nam vừa qua, tôi thường để mắt quan sát các thánh đường. Nói không ngoa,
may ra chỉ có các thánh đường và cơ sở của Giáo hội mới mon men “tranh” nổi với
các doanh trại quân đội nhân dân, công an, đảng bộ...về bề thế và sự hoành
tráng. Tôi có ghé một người bạn nay là linh mục quản nhiệm một giáo xứ lớn ở Miền
Trung. Ông đưa tôi đi một vòng ngôi thánh đường đồ sộ nguy nga và hiện đại mà
có lẽ ông muốn xem như một công trình để đời. Chiều đến, ông chở tôi trên chiếc
“Four Wheel” mới toanh đến một quán nhậu khuất giữa rừng xoài. Ở đây tôi lại chứng
kiến “uy thế” của ông bạn tôi: tất cả những thực khách đang ngồi nhậu đều là
công an, trưởng phòng, quan chức của chế độ. Họ chào vị linh mục chẳng khác
chào một bạn nhậu quen thuộc!
Dĩ nhiên, với vị linh mục bạn tôi, có lẽ
chẳng có thời nào “sướng” cho bằng thời
này. Chưa bao giờ Giáo hội có nhiều nhà thờ lớn như thời này. Chưa bao giờ Giáo
hội lại gởi người đi du học nước ngoài nhiều như lúc này.
Không nói đến gần 3 triệu đảng viên cộng
sản và đủ loại quan chức lớn bé ở Việt nam hiện nay, những thành phần “hài
lòng” với chế độ hiện nay không khỏi làm cho tôi liên tưởng đến những nạn nhân
của “hội chứng Stockholm”. Nhưng gợi
hình và dễ hiểu hơn, tôi nghĩ đến mấy chị gà vịt tôi nuôi trong chuồng. Lúc nào
cũng được ăn uống đầy đủ, cho nên có lẽ chúng vẫn thích lẩn quẩn trong cái chuồng
chật hẹp hơn là cái vườn thông thoáng nhưng phải bươi móc từng con sâu con bọ.
Con vật đi tìm no đủ cho bản thân như là
bản năng sinh tồn. Con người hơn con vật vì không những tìm cho mình mà còn khao khát cho người khác. Khi người
thanh niên Mohamed Bouazizi, người thanh niên Tunisia 26 tuổi nổi điên vì bị xử
bất công đến nỗi tự thiêu. Người ta gọi là một hành động dại khờ, nhưng nhìn lại, nếu không có cái dại khờ đó, thì làm sao
có được một loạt các cuộc cách mạng lật đổ các nhà độc tài ở Trung Đông, mà gần
nhứt là cái chết của Gadhafi.
Khi đại tá Gadhafi nằm xuống, nhiều người
xem đây là một hồi chuông báo tử cho các nhà độc tài ở Trung đông và xa hơn một
chút là một số nước Á châu trong đó có Việt nam. Tôi không quá lạc quan để chờ
đợi điều đó ở trên quê hương, bởi vì cái chế độ này hiện được chống đỡ không những
bởi các đảng viên, quan chức và những tư bản mới sống nhờ “luật lệ" bẩn thỉu
của chế độ, mà còn được nhiều người biện minh và ủng hộ khi vô tình nhắm mắt làm ngơ trước vô số những
vi phạm nhân quyền và những khốn khổ không thể tả xiết mà bao nhiêu đồng bào ruột
thịt đang gánh chịu. Nhiều người bạn tôi còn cho rằng không lên tiếng, không
tranh đấu là một thái độ khôn ngoan vì theo họ có làm thì cũng “chẳng đi đến
đâu, chỉ thiệt thân”.
Trong khi tôi còn chưa hiểu Apple là cái
gì thì trong túi mấy ông bạn tôi đều rủng rỉnh một cái iphone. Có không phải để
xử dụng những tiện nghi của nó cho bằng để “có với người ta”. Tôi mong sao cho
các bạn tôi và ngày càng có nhiều người ở Việt nam không chỉ biết chạy theo mấy
cái “Tôi” (i: intelligent/I) mà thiên
tài Steve Jobs đã sáng chế, mà còn biết lắng nghe lời khuyên của ông “Hãy tiếp tục khao khát. Hãy tiếp tục dại khờ”
để khao khát những giá trị cao hơn một
chút cơm thừa canh cặn của chế độ .Đó là khao khát suy nghĩ bằng chính cái đầu
của mình chứ không bằng cái đầu của người khác, khao khát nói lên điều mình suy
nghĩ chứ không chỉ trở thành cái loa của những người đang hét ra lửa. Và sẵn sàng
khờ dại để dám cuồng nộ đứng lên đạp
đổ cái chế độ vô nhân đạo ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét