Chu Thập
23.09.16
Vùng tôi ở
có một loài chim có tiếng hót rất đặc biệt. Tôi đặt tên cho chúng là “chim xây
cất”. Không rõ đi đâu và làm gì trong suốt mùa Đông, nhưng cứ mỗi độ Xuân về,
khi hừng đông vừa ló dạng, tiếng hót của chúng nổi bật và rảnh rang đến độ tôi
nghe rõ mồn một điệp khúc: “một xây hai cất, một xây hai cất, một xây hai cất...”
Sở dĩ tôi nghe được một điệp khúc như thế là vì trong tai tôi đã có ghi sẵn câu
nói quen thuộc mỗi khi đề cập đến tình
trạng tham nhũng ở Việt Nam: “Có xây thì có cất”. Nhà thầu nào mà chẳng tính
chuyện lời lãi khi xây cất. Bỏ ra một để xây thì cũng phải “cất” vào túi ít nhứt
gấp 2, 3 lần mới đáng công. Còn ở Việt Nam ngày nay, trong bất cứ công trình
xây dựng nào được ngoại quốc tài trợ, xin được 10 đồng thì người ta lại “cất”
vào túi cũng phải đến 5,7 đồng hoặc trọn gói cũng có. Thành ra mới có chuyện những
cây cầu mới khánh thành đã gẫy hoặc đường nhựa được lót không phải bằng cốt sắt
mà bằng ống tre.
Không rõ
loài “chim xây cất” ở vùng tôi có biết và ngao ngán về tệ nạn tham nhũng ở Việt
Nam không, nhưng có lẽ hót mãi rồi cũng có lúc cảm thấy mỏi miệng, nó chỉ còn
biết than: “Một đêm cất, một đêm cất, một đêm cất...”. Rồi đến một lúc, dường
như líu lưỡi, nó chỉ còn nấc lên: “Cất, cất, cất...”
Nghe chim
hót mà cứ nghĩ đến tình trạng tham nhũng ở Việt Nam mãi tôi cũng thấy chán. Cho
nên gần đây, mỗi lần nghe loài chim “xây cất” than thở rồi uất nghẹn đến nỗi
không còn hót được nữa, tôi lại nghĩ đến hiện tượng líu lưỡi của loài người.
Tôi không
thuộc loại người hùng biện và cũng chẳng bao giờ bắt chước diễn giả nổi tiếng của
Hy Lạp thời cổ là ông Demosthenes (384-322 trước công nguyên) mỗi ngày ra biển
ngậm sỏi vào miệng để hét lớn trước sóng cả để luyện giọng và nhứt là để tránh nói
ngọng. Lưỡi của tôi không dài đến nỗi ngọng nghịu. Lúc nhỏ tôi cũng chưa từng bị
chế nhạo vì nói ngọng. Nhưng ngày nay trong cuộc sống hằng ngày tôi thường vấp
váp khi nói chuyện, nhứt là khi phải trao đổi bằng Anh ngữ. Có lúc, vì líu lưỡi
(lapsus linguae), nghĩ đến từ này nhưng miệng tôi lại bật ra tiếng khác. Do ngu
dốt hoặc hiểu không thấu đáo, tôi thốt ra nhiều tiếng hoặc nhiều câu ngớ ngẩn
là chuyện thường. Cũng may, trong văn hóa Tây Phương, mình nói sai thì cùng lắm
người ta hỏi lại hoặc tế nhị giúp mình sửa lại chớ chẳng có ai cười nhạo như
trong văn hóa “cái gì cũng cười” của người
Việt Nam. Và cũng may và an ủi hơn nữa, tôi biết rằng trong chuyện giao tiếp
hàng ngày, dù trong ngôn ngữ nào, ai cũng bị líu lưỡi cả. Theo báo mạng
Psychology Today, “mỗi ngày hầu hết mọi người ai cũng đều bị líu lưỡi từ 7 đến
22 lần” (x. Slips of the Tongue/Psychology Today)
Dĩ nhiên, là
người vô danh tiểu tốt trong xã hội, nếu
có bị líu lưỡi hoặc chẳng kịp suy nghĩ mà nói “tầm bậy tầm bạ”, thì tôi chẳng sợ
bị ai để ý đến hoặc cười nhạo cả. Nhưng các nhà lãnh đạo, dù trong lãnh vực
nào, vì là người của quần chúng mà bị líu lưỡi đến độ dùng từ sai hoặc nói bậy,
thì đương nhiên phải lãnh cái vạ “thần khẩu hạ xác phàm” thôi. Như cựu Thủ tướng
Tony Abbott của Úc Đại Lợi chẳng hạn. Ngoài một số từ mới mà ông đã ứng khẩu
sáng chế ra và nay được từ điển Oxford
chính thức đưa vào kho ngữ vựng Anh ngữ,
ông hay bị líu lưỡi đến độ “râu ông được cắm vào cằm bà” không đúng chỗ chỉ khiến
cho dân chúng Úc cười mệt nghỉ thôi. Chẳng hạn, trong một cuộc gặp gỡ với giới
cử tri ủng hộ Đảng Tự Do tại Melbourne dạo tháng 8 năm 2013, ông nói nguyên văn
như sau: “No one - however smart, however well-educated,
however experienced - is the suppository
of all wisdom” (chẳng ai,
cho dù thông minh, học cao và có kinh nghiệm đến đâu là người có cả “túi” khôn
cả). Lẽ ra ông phải dùng chữ “repository”, nhưng có lẽ do líu lưỡi hoặc chưa
tra tự điển cho kỹ chăng, ông lại dùng từ “suppository” (thuốc nhét hậu môn).
Dân Úc vốn dễ dãi cho nên khi nghe nhà lãnh đạo của mình “vô tình” chọc cười, họ
cũng chỉ biết cười thôi, chớ hơi đâu mà bắt lỗi.
Thật ra cựu
Thủ tướng Abbott không phải là nhà lãnh đạo duy nhứt trở thành nhà chọc cười bằng
những cú líu lưỡi của mình. Về khoản này thì cựu Tổng thống “cao bồi Texas”
Georges W Bush của Mỹ đâu có thua gì ông Abbott. Chỉ cần mở Google , gõ tên ông
là thấy hiện lên tức khắc 50 câu nói buồn
cười và ngu xuẩn nhứt của ông. Ông bị
líu lưỡi cũng nhiều, mà “dốt” Anh ngữ cũng có. Dù sao, ngoại trừ di sản ông để
lại là mối bòng bong ở Trung Đông, chuyện líu lưỡi và “vô tình” chọc cười của
ông cùng lắm bị mang ra chế diễu chớ chẳng gây thù chuốc oán cho ai cả. Có đâu
như ông Nguyễn Xuân Phúc, đương kim thủ tướng cộng sản Việt Nam. Không nghe nói
ông này bị líu lưỡi. Nhưng mới đây, nhiều người Việt Nam có lẽ cảm thấy nhục quốc
thể khi ông thủ tướng với nhiều bằng cấp đại học này phát âm chữ “Made in
Vietnam” thành “Ma-dze in Vietnam”. Cũng mới đây, tại Hội Nghị Thượng Đỉnh các nước
thuộc khối Đông Nam Á, không hiểu trình độ tiếng Anh của ông thủ tướng Việt Nam
cỡ nào mà khi phó nhòm ra hiệu cho các vị nguyên thủ bắt chéo tay nhau để chụp
hình thì một mình ên ông lại hớn hở giơ tay lên vẫy chào, mà chẳng biết chào ai.
Tôi thấy tội nghiệp cho ông mà cũng xót xa cho người dân có một nhà lãnh đạo
như thế.
Chuyện của
ông Phúc làm tôi nhớ lại khả năng tiếng Anh của ông Joseph Estrada, cựu tổng thống
của Phi Luật Tân, quốc gia vốn xem Anh ngữ như một ngôn ngữ chính thức. Người
dân Phi thường đem thứ tiếng Anh ba rọi của ông tổng thống xuất thân là tài tử
điện ảnh này ra chế diễu. Tuy nhiên, trong một đất nước mà người dân thích nói
“Taglish” (thứ ngôn ngữ pha trộn giữa Anh ngữ và tiếng Tagalog do chính tài tử
Estrada quảng bá) hơn Anh ngữ thuần túy, chuyện Tổng thống Estrada dốt Anh ngữ
bị mang ra chế diễu có lẽ không đến nỗi phải lo ngại cho bằng kiểu ăn nói du
côn du đãng của đương kim Tổng thống Rodrigo Duterte. Dường như ông tổng thống
thứ 16 của quốc gia hải đảo này chẳng nể nang ai cả. Tổng thống Hoa Kỳ ông cũng
chửi. Giáo hoàng ông cũng không tha. Trong Anh ngữ, cùng lắm người ta quen miệng
chửi “son of bitch” (đồ chó đẻ). Còn ông, cứ mở miệng ra là “đồ con của đĩ” (Putang
ina). Ở cương vị nguyên thủ quốc gia mà gọi một vị nguyên thủ nước khác như thế
quả là một sự xúc phạm nặng nề khó tha thứ được. Có lẽ vì quốc thể mà Tổng thống
Barack Obama đã từ chối cuộc gặp gỡ với ông Duterte được dự trù diễn ra bên lề
Hội Nghị Thượng Đỉnh các nước Đông Nam Á được tổ chức tại Lào dạo đầu tháng 9 vừa
qua.
Không biết
có phải Tổng thống Duterte đã học được
cái thói ngang tàng, ăn nói lố lăng và chửi rủa người khác của ứng cử viên tổng
thống Mỹ thuộc Đảng Cộng Hòa là ông Donald Trump không. Báo chí đã có lý để gọi
ông Duterte là một ông “Trump của Á Châu”. Nhưng họ giống nhau ở chỗ được dân
chúng nhiệt liệt ủng hộ. Bên Phi, mặc dù thành tích vi phạm nhân quyền của ông
Duterte bị cả Hoa Kỳ lẫn Liên Hiệp Quốc lên án, vẫn có đến 90 phần trăm dân
chúng tán thành việc ông ra lệnh giết những kẻ bị tình nghi có dính líu đến ma
túy mà không cần mang ra xét xử. Trong khi đó thì dù cho báo chí Mỹ có chống đối,
người thức thời có gọi ông là tên dốt nát, kẻ ngu xuẩn hay lố lăng đi nữa, ông
Trump không những đã đánh bại 16 đối thủ nặng ký của Đảng, mà còn lăm le qua mặt
bà Hillary Clinton trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc vào tháng 11 tới đây.
Cái thời “cũng bởi thằng dân ngu quá lợn cho nên quân nó dễ làm quan” của cụ Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu biết đâu lại chẳng đang được lập lại tại một đất nước văn
minh bậc nhứt như Hoa Kỳ.
Không biết
xã hội Mỹ có phải là một xã hội bạo động không, nhưng chuyện mang súng bắn xối
xả vào đám đông cứ diễn ra như trong các phim cao bồi viễn Tây. Không biết người
dân Mỹ có thích bạo động không, nhưng rõ ràng là hiện có rất nhiều người đang ủng
hộ một người có chủ trương giải quyết nhiều vấn đề bằng bạo động, nhứt là bạo động
trong lời nói.
Trong xã hội
loài người cũng như thú vật, ngôn ngữ là để thông tin liên lạc với nhau và để tự
thể hiện chính mình. Nói, dù là nói xàm nói gở một mình, cũng là một cách muốn
khẳng định rằng mình đang hiện hữu và muốn được người khác chú ý lắng nghe.
Nhưng con người cũng nói để bắt nạt, để thị oai hay cũng để trấn áp hay tấn
công người khác. Con người không chỉ bạo động khi đấm đá hoặc dùng khí giới để
tấn công người khác. Ngày nay người ta cũng nói nhiều đến bạo động bằng lời
nói, nhứt là trong đời sống gia đình. Vợ chồng không cần phải đấm đá nhau mới gọi
là bạo hành. Chỉ cần to tiếng chửi rủa nhau cũng đủ để gọi là bạo hành.
Tôi vẫn nhớ
mãi những “trận thư hùng ” lúc còn nhỏ. Cũng giống như trong truyện Tàu, trước
khi quẩn thảo nhau lúc nào cũng có màn khích bác chửi rủa nhau, thường là với
thứ ngôn ngữ có dính líu đến những cơ phận trong thân thể mà nhà đạo của tôi gọi
là “chỗ dơ dáy”. Phải bị nhục mạ và xúc phạm bằng thứ ngôn ngữ của thân xác ấy
thì mới cảm thấy bị kích thích đủ để nhào vào ăn thua đủ với nhau bằng chân
tay.
Nhờ được dạy
dỗ, tôi đã quên hẳn sự bạo động bằng thứ ngôn ngữ của tục tằn ấy. Mẹ tôi cứ bảo:
“câu nhịn bằng chín câu lành” con ạ. Bạo động bằng lời nói, tự nó, đã là một thứ
chiến bại rồi. Đức Phanxicô dường như đã chẳng có phản ứng nào khi bị ông
Duterte chửi: “Đồ chó đẻ, về nhà đi” khi hơn một triệu người công giáo Phi ra
đường đón chào ngài khiến cho ứng cử
viên tổng thống Duterte phải bị kẹt xe. Tôi cũng phục tư cách của Tổng thống
Obama khi bị ông Duterte gọi là “con của đĩ”. Tại Hội Nghị Thượng Đỉnh các nước
Đông Nam Á, mặc dù hủy bỏ buổi gặp gỡ chính thức với ông Duterte, Tổng thống
Obama vẫn bắt tay ông. Ai thắng ai thua trong cuộc chiến xã giao và lịch sự thì
đã rõ!
Mùa xuân, mỗi
lần nghe loài chim “xây cất” cất tiếng chào bình minh, tôi cũng thường nhớ lại
lời mẹ dặn: “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ
nghe” hoặc “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Làm được một
người khôn ngoan, biết nói năng dịu dàng để không ăn miếng trả miếng, để không
có thái độ ngạo mạn và bạo động đối với
người khác là chuyện phải học cả một đời. Quả thật, trong suốt cuộc sống, nếu
phải hối tiếc thì có lẽ tôi không hối tiếc vì mất mát thua thiệt cho bằng những
lần bạo động bằng lời nói. “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” mà! Có khi một lời
nói xúc phạm lại khó quên hơn một cử chỉ bạo động. Xét cho cùng, sống tử tế với
người khác chính là trước tiên không dùng lời nói để xúc phạm đến họ. Như văn
hào Mỹ Mark Twain (1835-1910) đã nói: “Tử tế là ngôn ngữ mà người điếc có thể
nghe được và người mù cũng nhìn thấy”.