Chu Thập
18/03/14
Mỗi độ “Mùa Chay” của Kitô giáo trở lại, tôi thường tính sổ về những tiến
bộ hay thụt lùi trên con đường mà ngôn ngữ nhà đạo của tôi thường gọi là “đàng
nhơn đức”. Nhưng tôi thích nhìn theo cách nói “ngoài luồng” hơn cho nên lúc nào
cũng tự vấn lương tâm: tôi có sống cho ra người hơn chút nào không?
Thuở nhỏ tôi rất sợ chay tịnh. Đã đói triền miên lại còn phải chay với tịnh.
Cân đo đong đếm sai một chút về lượng thức ăn thì coi như phá chay.
Mỗi năm chỉ ngửi được mùi thịt năm ba lần lại phải kiêng
vào ngày thứ sáu. Cho nên “mùa chay” đối với tôi quả là một cực hình hay đúng
hơn một thứ hình phạt mà dường như giá trị chữa trị chẳng thấm vào đâu cả.
Ngày nay, không còn trong độ tuổi phải ăn chay thì tôi lại ăn chay hầu như
mỗi ngày: lượng thức ăn bớt lại đã đành mà thứ gì tôi cũng kiêng được cả! Nhưng
có “ăn chay” cỡ nào tôi cũng vẫn thấy mình còn đầy dẫy “tính hư tật xấu”, xác
thịt thì vẫn cứ yếu đuối và tinh thần thì vẫn cứ nặng nề với đủ mọi thứ đam mê.
Trong các thứ sợi giây “oan khiên” cứ trì kéo tôi đi thụt lùi trong “đàng nhơn
đức”, tôi nhận thấy hận thù vẫn là điều khủng khiếp nhứt.
Thật ra, tính sổ lại tôi thấy mình chẳng có bao nhiêu người để mà thù ghét
cả. Nhưng lạ lùng quá, cứ nghĩ đến người cộng sản thì tôi lại thấy như sôi máu
lên. Đã thoát khỏi ách cộng sản từ hơn 30 năm nay, nhưng không hiểu tại sao đêm
ngày, cứ nhớ về quê hương, nhìn thấy những bản mặt của bọn cướp ngày thì tự
nhiên, giây thần kinh thù ghét trong tôi như cứ giựt lên bần bật.
Tôi biết bất cứ tôn giáo nào cũng dạy tôi tha thứ và buông bỏ. Nhà lãnh đạo
tôn giáo chân chính nào cũng khuyên nhủ tôi như thế. Và ngay cả những nhà tranh
đấu bất bạo động nổi tiếng trong lịch sử nhân loại cũng chỉ để lại một tấm
gương của bao dung, khoan nhượng và tha thứ. Hằng ngày, tôi cũng vẫn luôn tâm
niệm rằng tôi chỉ thực sự có được an bình nội tâm khi tôi biết sống yêu thương
và tha thứ. Trong quan hệ với những người
sống bên cạnh và xung quanh tôi, lúc nào tôi cũng cố gắng thực thi điều đó. Vậy
mà cứ nghĩ đến những khuôn mặt như “đồng chí Ếch”, đồng chí “Lú” hay “đồng chí chủ tịch nước” là tôi lại quên hết mọi lời khuyên dạy của tôn giáo, của
các bậc thánh hiền và chỉ muốn được nghỉ
“làm người” lương thiện và tử tế một chút để mà chửi bới, nguyền rủa và ngay cả
“giết sạch” cho rồi.
Về sự đối đầu với những tên đồ tể và cướp ngày, tôi thường nghĩ đến cố mục
sư tin lành người Đức Dietrich Bonhoeffer (1906-1945). Ông là một nhà tư tưởng nổi tiếng của Đức mà
cách suy nghĩ và hành xử đã ảnh hưởng sâu đậm đến những người như cố mục sư
Martin Luther King, đến Phong trào dân chủ tại Đông Âu thời chiến tranh lạnh và
phong trào chống chế độ phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. Nhưng nhắc đến ông, thế
giới thường nghĩ đến trước tiên sự đối
kháng mãnh liệt và triệt để của ông đối với chế độ tàn bạo và vô nhân đạo của
Hitler. Là một nhà lãnh đạo tinh thần luôn khuyên dạy các tín đồ sống yêu
thương và tha thứ, tuy vậy ông không chỉ lên tiếng đả kích các chương trình diệt
chủng của Hitler, mà còn gia nhập vào tổ chức kháng chiến và chủ trương bằng mọi
giá phải “ám sát” Hitler. Bị cơ quan mật vụ Gestapo của Đức quốc xã bắt giữ và
giam cầm trong một trại tập trung, hai năm sau, khi chỉ còn đúng 23 ngày trước
khi Đức quốc xã đầu hàng và Âu châu được giải phóng, ông đã bị hành quyết một
cách dã man bằng hình phạt treo cổ.
Hitler quả là một quái vật. Thế giới sẽ không bao giờ quên được cuộc tàn
sát dã man 6 triệu người Do Thái và cái chết của không biết bao nhiêu nạn nhân
của Đệ nhị thế chiến do Hitler phát động. Nhưng nếu so sánh tên đồ tể này với bọn
cướp ngày ở Việt Nam hiện nay, tôi thấy có khi mức độ tàn bạo và dã man của người
cộng sản lại cao gấp bội: Hitler chỉ có chủ trương tàn sát chủng tộc Do Thái,
còn người cộng sản Việt Nam lại đã và đang tiêu diệt chính người đồng bào ruột
thịt của mình. Đã chẳng có tòa án quốc tế nào đào mồ những tên đồ tể cộng sản
lên mà xét xử và ngày nay, những tên cộng sản đang công khai cướp của, giết người
thì cũng chẳng có cơ quan công lý thế giới nào động đến lông chân của họ. Có
lúc tôi chỉ muốn được làm một người hùng như cố mục sư Bonhoeffer để cho dân tộc
tôi bớt khổ đau hơn mà thôi! Càng nhớ quê hương, càng thương yêu dân tộc, tôi lại
thấy mình càng không thể tha thứ cho những người cộng sản và để cho họ đứng “chật
đất” mãi như thế.
Sau hơn 30 năm trốn chạy người cộng sản, tôi vẫn thấy mình tiếp tục bị “đọa
đày” và khốn khổ. Có ngày nào qua đi, khi gặp gỡ, tiếp xúc và va chạm với những
người không cùng màu da, ngôn ngữ với mình mà tôi lại không ý thức về bản sắc
“tỵ nạn” của mình. Không phải tuyên tín như một tín đồ tôn giáo, nhưng hầu như
ngày nào tôi cũng thấy mình là một người “chống cộng”. Có nhiều nét trong tư
cách của tôi, nhưng dường như “chống cộng” vẫn cứ là “thuộc tính” thiết yếu của
con người tôi.
Dạo tháng 5 năm vừa qua, tôi có đọc được bài viết có tựa đề “tôi không chống cộng” của tiến sĩ Nguyễn
Hưng Quốc, đăng trên Blog của Đài VOA, tiếng nói Hoa Kỳ. Tác giả mở đầu bài viết
bằng sự kiện hai lần ông về Việt Nam và cả hai lần đều bị cấm nhập cảnh. Tuy
không có lời giải thích nào từ phía chính quyền cộng sản Việt Nam, nhưng tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc nghe phong phanh đâu đó rằng sở dĩ ông bị cấm vào Việt Nam
là vì ông là một người “chống cộng”. Ông cũng nói rằng ngay cả bạn bè và những
người có cảm tình với ông cũng thường nói rằng ông là người “chống cộng”. Nhưng
tác giả “xin nói một cách thành thực: tôi
không hề chống cộng”.
Nhà phê bình văn học nổi tiếng này giải thích rằng sở dĩ ông “không chống cộng”
là bởi vì ngày nay, kể từ năm 1991, sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tại cái
nôi khai sinh ra nó là Nga, ý thức hệ cộng sản chỉ còn là chuyện quá khứ. Theo
ông, “ở thời điểm này, nói chống cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn,
cái không còn hiện hữu nữa”.
Rõ ràng hơn, tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc viết: “Cái gọi là “chống Cộng” bao gồm hai nội dung chính: một, chống lại chủ
thuyết cộng sản (chủ yếu là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin); và hai, chống lại
chế độ cộng sản. Với cả hai nội dung ấy, trước năm 1975, nói chống Cộng: được;
trước năm 1990, nói chống Cộng: được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói
một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại”.
Tôi hoàn toàn đồng ý với tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc: ai lại đi chống một ý thức
hệ, một chủ nghĩa, một chủ thuyết hay một thứ “chủ” (ism) nào đó đã “chết tiệt”
và đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử. Tôi chẳng còn thì giờ đâu để mà “chém
gió” với một thứ bóng ma như thế. Thật ra, cho tới giờ phút này, cho dẫu có được
giải thích cặn kẽ đến đâu, tôi cũng chẳng hiểu được thấu đáo cái ý thức hệ và
chủ nghĩa ấy. Ngay cả mấy tên cộng sản gộc bên Liên Xô, Đông Âu ngày xưa có khi
cũng chẳng hiểu được thế nào là chủ nghĩa cộng sản và nhìn thấy được bộ mặt của
điều thường được rêu rao là “chủ nghĩa xã hội hiện thực”. Nói gì đến những tên
hoạn lợn hay du kích như “đồng chí Ếch”, đồng chí “Lú” suốt ngày đêm chỉ biết đặt
bom giết người vô tội, pháo kích bừa bãi, tàn sát người vô tội vạ và ngày nay
chỉ biết cướp của giết người...thì làm sao có đủ trí óc và thì giờ để học và hiểu
về một “môn học mà học sinh không muốn học và thày cũng chẳng muốn dạy”.
Cá nhân tôi cũng chẳng muốn làm cho bộ óc vốn già nua và hết chất xám của
mình thêm mệt mỏi vì cái chủ nghĩa thổ tả ấy. Cho nên ngày nay tôi thấy cũng chẳng
cần phải “chống” lại nó làm gì cho mất giờ vô ích. Tôi có chống là chống lại
cái bọn người, luôn tự xưng là người cộng sản, cứ khơi khơi cướp của giết người
giữa ban ngày mà chẳng ai dám làm gì cả. Cộng sản là như thế đó. Tôi chống cộng
theo ý nghĩa ấy. Cộng sản là độc tài. Cộng
sản là cướp của giết người. Cộng sản là dối trá, lừa bịp. Cộng sản là vô nhân đạo.
Cộng sản là vô liêm sỉ. Cộng sản là giả nhân giả nghĩa. Còn có thứ tĩnh từ xấu
xa nào mà tôi không thể không gán cho chủ nghĩa cộng sản khi nhìn vào ngôn từ và hành động của những
người cộng sản...Nhưng căn cốt nhứt, theo tôi Cộng sản chính là Hận Thù. Đây là
thứ “nọc độc” mà vô tình tôi lại bị tiêm nhiễm lúc nào không hay biết.
Tôi vẫn còn nhớ như in ngày 2 tháng 4 năm 1975, ngày thành phố biển Nha
Trang của tôi mở cửa cho bọn cướp ngày tràn vào. Tôi vẫn nhớ hôm đó là một ngày
mưa tầm tã. Trời cũng phải khóc thương chớ đâu phải chỉ có con người. Những
ngày kế tiếp là những ngày kinh hoàng nhứt trong đời tôi. Đi đâu cũng thấy mưa
sa trên cờ “giải phóng”. Đi đâu cũng thấy bóng mấy anh bộ đội ngơ ngác và mấy
anh “cách mạng 30” “hồ hởi” và hùng hổ đi săn lùng người quen biết của mình. Đi
đâu cũng thấy sợ. Nhưng sợ và đồng thời lại mong và hy vọng khi nghe những chiếc
phản lực cơ A.30 từ phía nam bay ra thả bom xuống Cầu Bóng để chận đứng làn
sóng đỏ. Chuyện không thể tránh được trong chiến tranh: một quả bom đã rơi ngay
phía trước Tháp Bà khiến cho một số người chết và bị thương. Chỉ vài ngày sau,
người ta thấy dựng lên tại chỗ đó một tấm bia “Căm Thù Sâu Sắc” lên án Mỹ Ngụy. Và dĩ nhiên, cũng trong những ngày
sau đó, cứ mỗi lần có “học tập”, ngoài bài giải phóng ca kêu gọi “dẹp tan bầy
lũ bán nước”, cứ phải cúi đầu để bị nhét câu thần chú “căm thù sâu sắc” ấy vào
đầu.
Cách đây vài năm, về thăm lại thành phố thân yêu, tôi có dịp đi ngang chỗ
có tấm bia “Căm Thù” ấy. Nhưng dường như ngày nay, nó đã mờ nhạt đến độ tôi
không còn đọc được chữ nào nữa. Có lẽ “bia ôm” và đủ mọi thứ bia ru ngủ quần
chúng khác đã xóa đi tấm bia căm thù Mỹ Ngụy, nhưng lại làm dấy lên lòng hận
thù của dân chúng đối với bọn cướp ngày nhan nhản khắp cả nước.
Tôi chỉ thực sự biết và sờ được bộ mặt của cộng sản trong 5 năm. Vậy mà bỏ
nước ra đi, trốn chạy cái bộ mặt ấy đã trên 30 nay, tôi vẫn không tẩy rửa khỏi
tâm hồn cái nọc độc của hận thù ấy được. Chẳng gì khốn khổ bằng cứ nghĩ đến thứ
chủ nghĩa đã được “nhập thể” bằng xương bằng thịt trong bọn cướp ngày ấy thì
tôi lại thấy hận thù sôi sục lên. An bình thế nào được, hạnh phúc thế nào được
khi cứ phải nhìn thấy những bộ mặt ấy xuyên qua những khốn khổ mà bao nhiêu đồng
bào ruột thịt của mình tiếp tục gánh chịu.
Mỗi dịp “mùa chay”, tính sổ đời, tôi
thấy dường như mình chẳng tiến thêm được bước nào trong “đàng nhơn đức”.
Nọc độc hận thù mà chủ nghĩa cộng sản đã tiêm vào người vẫn còn đó. Nói gì đến
những cặn bã khác như dối trá, lừa bịp, tàn bạo, tham lam, giả nhân giả nghĩa,
vô liêm sỉ...mà chủ nghĩa cộng sản cũng đã “hà hơi” vào tôi, có lẽ còn lâu tôi mới có thể rũ bỏ cho sạch
khỏi con người của tôi. Liệu tôi có thực sự là một người “chống cộng” không bao
lâu những thứ rác rưởi ấy vẫn còn bám chặt vào nhân cách của tôi. Liệu tôi có ra
“người” hơn chút nào không nếu tôi cứ phải nuôi dưỡng những thứ đó trong tâm hồn
mình?