Chu Thập
Xuân Kỷ Hợi 2019
Mẹ tôi qua đời vào áp ngày cuối năm Âm lịch 1975, cho nên
những ngày cuối năm là những ngày tôi nhớ mẹ nhiều nhứt. Nhớ công lao tảo tần,
chắt chiu và vun vén của mẹ để lo cho gia đình đủ ăn đủ mặc. Chuẩn bị bước vào Năm Con Heo, nhớ mẹ, tôi thường liên tưởng đến con heo đất của mẹ.
Nhà tôi bị phá sản trong những năm đầu của thập niên
1950. Nhiều mất mát lớn lao đã xảy ra cho gia đình. Trí nhớ của tôi vừa đủ bén
nhậy để ghi lại một số biến cố. Tôi vẫn nhớ như in một buổi sáng nọ, sau một
đêm nghe có nhiều tiếng súng nổ gần nhà, cả gia đình đã thức giấc trong sự bàng
hoàng khi chứng kiến nguyên một đàn trâu bò được cột giữ trong vườn trước nhà
đã ngã gục. Mãi sau này tôi mới được giải thích rằng những viên đạn hạ sát đàn
súc vật của gia đình tôi đã được bắn ra từ một đồn lính Tây gần nhà thờ, chỉ
cách nhà tôi khoảng một trăm thước.
Rồi một buổi chiều khác, tôi vẫn nhớ mãi gương mặt hớt ha
hớt hãi của cha tôi khi ông từ ngoài ruộng chạy về báo tin cho cả nhà biết rằng
ruộng mía đường trên đồng Tây Cối cách nhà chừng 2 cây số cũng đã bị lính Tây nổi
lửa thiêu rụi. Công cuộc kinh doanh của cha tôi coi như “tiêu tán đường”. Cha
tôi chỉ còn giữ lại được vài miếng ruộng đủ để kiếm gạo cho cả nhà. Thời đó,
lúa Thần Nông do Viện IRRI của Liên Hiệp Quốc (International Rice Research
Institute, chuyên nghiên cứu về lúa có trụ sở đặt tại Phi Luật Tân) tìm ra chưa
được du nhập vào Việt Nam. Cũng như các nông dân khác ở vùng quê tôi, cha tôi
chỉ biết cậy dựa vào các giống lúa đặc sản của địa phương như Mắt Cu, Ba Thắc,
Đồng Nai...Mỗi năm chỉ trồng được 2 mùa, nhưng những giống lúa địa phương này
có sức kháng cự với rầy và sâu bọ cao cho nên thường cung cấp đủ lúa gạo cho
người dân quê. Dĩ nhiên, cũng có những năm, do hạn hán hay vì một nguyên nhân
nào đó, trắng tay hay phải “bán lúa giống” là chuyện thường xảy ra cho nhiều
người trong đó có cha tôi.
Ngoài chuyện trâu bò và ruộng mía bị lính Tây xóa sạch,
gia đình tôi còn phải trải qua một chuyện buồn khác mà một đứa trẻ 4, 5 tuổi như tôi vẫn còn ghi tạc trong ký ức.
Ông cố tôi để lại gia tài cho ông nội tôi vốn là con trai một trong gia đình.
Gia tài này lại được ông nội tôi truyền lại cho cha tôi là con trưởng nam trong
gia đình. Không phải là một cơ ngơi đồ sộ, nhưng gia tài ông cố tôi để lại gồm
có một mảnh vườn đủ lớn để trồng đủ các loại cây ăn trái và 2 gian nhà, cả hai
đều được lợp bằng ngói âm dương. Riêng gian nhà dưới lại được cất toàn bằng gỗ:
cửa chính, cửa sổ bằng gỗ, tường bằng gỗ và 2 phòng ngủ cũng bằng gỗ. Do bị phá
sản và nợ nần chăng, cha tôi đành phải bán gian nhà dưới. Tôi vẫn nhớ mãi một
ngày nọ nhiều người đã kéo tới nhà tôi. Họ dùng đủ mọi dụng cụ để tháo gỡ ngôi
nhà. Tôi đứng nhìn người ta đang đập phá nhà mình mà không hiểu sự gì đang xảy
ra cho gia đình.
Mới đây tôi có đọc được chuyện xảy ra ở Lộc Hưng như được
tác giả Từ Thức bên Pháp và nhà báo Ngô Nhân Dụng của báo Người Việt ghi lại. Riêng
tác giả Từ Thức viết rằng mỗi lần nghĩ đến chuyện đang xảy ra ở Lộc Hưng, ông
không thể không nhớ lại hai hình ảnh: “Thứ
nhất, video quay cảnh một người cha trèo lên đống nhà sập, té lên té xuống, đi
tìm những mảnh đồ chơi của con. Thứ hai, hình một cháu gái áo đỏ buồn bã ngồi
nhìn nhà mình bị kéo sập”.
Tác giả Từ Thức tự hỏi: “Cái gì diễn ra trong đầu một đứa bé nhìn cả thế giới của mình sụp đổ.
Trong một xã hội bất nhân, tình cảm là một xa xí phẩm, còn ai bận tâm tới cái
gì diễn ra trong đầu một đứa nhỏ?”
Tôi ngắm kỹ hình của cô bé được truyền thông của người Việt
hải ngoại gọi là “cô bé áo đỏ” ở Lộc
Hưng. Nhìn em ngồi chống tay lên cằm, ra chiều suy nghĩ như một người lớn, tôi
biết em đã tới tuổi “biết buồn”, biết đau với những mất mát của gia đình và của
riêng em. Còn tôi, khi người ta đến tháo gỡ gian nhà dưới của gia đình, tôi còn
quá nhỏ để biết đau, biết buồn với nỗi mất mát của gia đình và dĩ nhiên cũng chẳng
hiểu tại sao gia đình phải lâm vào một hoàn cảnh bi đát như thế.
Mãi sau này, khi lớn khôn một chút, tôi mới được cha tôi
giải thích về nguyên nhân phá sản của gia đình. Cha tôi nói rằng ông có “lên
núi” đi kháng chiến chống Tây một thời gian. Tôi chỉ nhớ mầy mậy là có những
đêm khuya, trong nhà xuất hiện nhiều người mặc áo đen. Cha tôi theo Việt Minh mấy
năm tôi không rõ và ông “dinh tê” về làng lúc nào tôi cũng chẳng biết. Sau này
khi tôi có dịp nói chuyện với một số linh mục người Pháp đã từng điều khiển một
trung tâm đào tạo linh mục, bí mật về cha tôi mới được vén mở. Số là ông anh thứ
Sáu của tôi đã từng tu học tại trung tâm này. Đang học lớp Quatrième (tương
đương với lớp đệ ngũ của chương trình Việt), anh tôi bị nhà trường đuổi về mà
không đưa ra một lý do nào. Chuyện của anh tôi chỉ được làm sáng tỏ khi một
linh mục người Pháp đã phá vỡ sự thinh lặng để cho tôi biết rằng sở dĩ anh tôi
bị đuổi về là vì lúc đó đã có người tố cáo rằng cha tôi treo cờ Việt Minh trên nóc
nhà thờ. Cha tôi hoàn toàn bác bỏ lời tố cáo này. Nhưng muốn hay không, cái giá
mà ông phải trả vì những năm đi theo Việt Minh là sự phá sản ảnh hưởng đến cuộc
sống của gia đình và con cái. Và hơn ai
hết, mẹ tôi là người phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhứt.
Cũng như cha tôi, về học vấn, mẹ tôi chỉ “tốt nghiệp bình
dân học vụ”. Vậy mà tiếng Tây (bồi), bà cũng “ba xí ba tú” như gió. Sách nào
rơi vào tầm tay bà cũng đọc ráo. Riêng về chuyện buôn bán làm ăn thì có lẽ mẹ
tôi “lanh” không ai bằng. Thời đó mà bà đã đi ra vào Sài Gòn như cơm bữa, trong
khi đó đối với rất nhiều người dân làng tôi, “Hòn ngọc Viễn Đông” này là một thế
giới hoàn toàn xa lạ.
Ngoài chuyện buôn bán, nguồn thu nhập chính của gia đình
tôi, sau khi công việc làm ăn của cha tôi phá sản, là mấy con “heo đất” của mẹ
tôi. “Heo đất” của mẹ tôi không phải là những cái “bủng bỉnh” bằng đất được nắn
theo hình tượng con heo thường được người lớn mua cho trẻ con để tập chúng biết
để dành tiền. “Heo đất” của mẹ tôi là heo bằng xương bằng thịt, nhưng vào những
năm đầu của thập niên 1950, chưa có chuồng heo bằng xi măng cho nên quanh năm
ngày tháng bị nhốt trong những cái chuồng được lợp bằng mái tranh và suốt ngày ủn
ỉn bì bõm trên một nền đất lầy lội.
Heo đất của mẹ tôi gồm có 3 chị nái thuần chủng địa
phương. Thời đó các giống heo ngoại quốc như Yorkshire chưa xuất hiện ở Việt
Nam, người dân quê tôi chỉ biết nuôi giống heo bụng trắng, lưng đen, nhỏ con
nhưng được cái mắn đẻ và đẻ sai. Đi đứng thì lúc nào vú mớm cũng lòng thòng chấm
đất.
3 chị heo nái là 3 cái bủng bỉnh của mẹ tôi. Những đồng
tiền cắc kiếm được từ đủ thứ công việc được mẹ tôi dồn vào việc mua cám, mua
rau muống cho mấy chị heo. Một ít đất khô cằn được dùng để sản xuất khoai mì.
Mì xắt lát phơi khô có lẽ là những món “cơm độn” khoái khẩu của heo. Cứ thế,
heo lúc nào cũng “đủ ăn” và cứ đúng mùa theo sự tính toán của mẹ tôi để sinh
con đẻ cái. Có lứa ra đời vào dịp Tết. Có lứa xuất hiện vào lúc con cái trong nhà tựu trường. Mỗi lứa
heo con bán ra là món tiền bỏ ống của mẹ tôi, đủ để đắp đổi chi tiêu trong gia
đình và cũng đủ để cho anh em chúng tôi được ăn và học. Heo đực được rước về
nhà đúng lúc để làm nghĩa vụ truyền giống. Tôi được may mắn chứng kiến chu kỳ
sinh đẻ của mấy chị heo nái. Có những đêm, mẹ tôi chong đèn để làm bà mụ cho mấy chị heo. Anh chị em chúng tôi quây quần xung
quanh mẹ để hồi hộp theo dõi từng con heo con lọt lòng mẹ. Trẻ con nhà quê như
tôi đâu cần phải học giáo dục sinh lý. Tắm sông thì ai cũng đều Adam và Eva như
nhau. Thế nào là truyền giống và sinh sản thì đã có chú heo đực và mấy chị heo
nái mách bảo.
Mẹ tôi đã âm thầm dạy cho chúng tôi nhiều bài học. Nhưng
bài học quan trọng hơn cả là xuyên qua mấy con “heo đất”, mẹ tôi đã cho thấy rằng
biết dành dụm và tích lũy ai cũng có thể vượt qua được những nguồn cơn khốn
khó.
Thật ra, lúc nhỏ tôi cũng có nhiều lần được tặng cho một
con heo đất. Nhưng heo đất của tôi là để ngắm cho đỡ ghiền hơn là để bỏ vào đó
những đồng xu nhỏ. Lũ trẻ con nhà quê nghèo như tôi ít khi có tiền túi. Có chút
đỉnh thì đem mua giây thun để làm ná bắn chim hay cước và lưỡi câu để câu cá,
còn đâu mà bỏ ống. Một lần duy nhứt trong đời tôi có tiền rủng rỉnh trong túi
là năm tôi lên 6,7 tuổi. Năm đó, không rõ từ đâu một con gà con lạc mẹ chạy vào
vườn nhà tôi. Tôi xí được của trời cho. Con gà con được cho nhập bày với đám gà
trong nhà. 6 tháng sau, nó trổ mã biến
thành một chị gà mái. Nó cho tôi một bày gà con. Ba tháng sau, gần đến Tết, tôi
nhờ bà chị cả bán bày gà giò lẫn gà mẹ. Tết năm đó, tôi trở thành “đại gia” giữa
đám trẻ con nghèo.
Tết đến tôi nhớ mẹ tôi. Năm con heo, hình ảnh những con
“heo đất” của mẹ tôi lại trở về. Tôi không có thói quen bỏ ống nuôi “heo đất”.
Nhưng càng thêm tuổi, tôi càng nghiệm ra rằng trong cuộc sống những tích lũy
trong tinh thần như giá trị nhân bản và
đạo đức quan trọng và cần thiết hơn tiền bạc. Chỉ có những giá trị này mới thực
sự mang lại an bình và hạnh phúc đích thực cho con người. Người ta có thể thừa
hưởng của cải vật chất do gia đình để lại. Nhưng phải “tu thân tích đức”, phải
tập tành từng ngày con người mới thực sự giàu có nhờ sống theo những giá trị
nhân bản, tinh thần và đạo đức.
Cả đời có lẽ tôi chỉ mới lập được 2 thành tích đáng kể là bỏ thuốc lá và chạy bộ mỗi ngày. Năm 1975,
tôi rước vào người đủ mọi tật xấu, trong đó ghiền thuốc lá là điều tệ hại nhứt.
Năm 1990, khi nhận ra thuốc lá đã cướp đi nhiều cái răng, đục khoét bao tử và
làm cho tim lúc nào cũng đập loạn xà ngầu...tôi quyết tâm bỏ thuốc lá. Nhưng chỉ
sau 3 tháng tôi đã “sa ngã” lại. Tôi lại đứng lên và lần này tôi đã cầm cự được
6 tháng. Nhưng cũng như dân ghiền thuốc lào, “chôn điều xuống lại đào điếu
lên”, tôi lại càng hút bạo hơn...Phải trày vi tróc vẩy năm lần bảy lượt, sau
đúng một năm kiêng khem, tôi mới thực sự giã từ khói thuốc. Tôi xem đây như một
cuộc giải phóng vĩ đại nhứt trong cuộc đời. Không gì sung sướng bằng khi thấy
mình không còn làm nô lệ cho khói thuốc nữa! Bởi một khi thoát ách nô lệ khói
thuốc, tôi thấy chẳng có tật xấu nào có thể cám dỗ tôi được nữa.
Tôi cũng có được một cảm nhận như thế khi tập được thói
quen chạy bộ mỗi ngày. Cách đây 10 năm, bác sĩ tuyên án: tôi bị tiểu đường loại
2. Ý thức rằng đây là hậu quả của một cuộc sống thiếu kỷ luật, tôi thấy cần phải
thay đổi cách sống. Tôi liền bắt tay vào việc chạy bộ mỗi ngày. Chỉ sau vài
tháng, tôi đã tập được thói quen. Mặc dù không uống thuốc, kết quả lần thử máu
nào cũng cho thấy bệnh tiểu đường đã được kiểm soát một cách tốt đẹp!
Với 2 thành tích trên đây, tôi nghiệm ra rằng muốn bỏ một
thói quen xấu và tập một thói quen tốt, cần phải tập luyện và tu luyện mỗi ngày.
Chẳng có ai trong một sớm một chiều trở thành một người xấu và cũng chẳng có ai
trong một ngày biến thành một người tốt. Một nhân cách lớn luôn là thành quả của
những cử chỉ tử tế âm thầm và nhỏ bé được lập đi lập lại mỗi ngày.
Mẹ tôi đã không trực tiếp giảng dạy cho tôi điều đó.
Nhưng những con “heo đất” được mẹ tôi nuôi bằng những chắt chiu và hy sinh từng
ngày lúc nào cũng gợi lên cho tôi bài học đó, nhứt là trong năm Con Heo này.