Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2021

Dửng dưng là tên gọi của cái Ác

 


Chu Văn

Khoảng đầu thập niên 1990, nghĩa là vài năm sau khi Việt Nam tuyên bố mở cửa và chạy theo điều được gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, một số sinh viên học sinh được gởi đi du học tại Phi Luật Tân. Phi Luật Tân được chọn làm địa điểm du học, bởi vì nước này tương đối gần Việt Nam, tại đây Anh ngữ được sử dụng như một sinh ngữ chính, học phí thấp, giá sinh hoạt cũng rẻ. Trong số những sinh viên du học tại Phi, tôi thấy cũng có một số tu sĩ công giáo và trong số tu sĩ công giáo, tôi biết chắc có một nữ tu đã từng là thành viên của cái gọi là “Ủy ban đoàn kết công giáo”. Đây là một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản. Nhiều người đọc trại ra thành “Ủy ban đàn két cong giáo”.

Biết tôi hay lên tiếng phê bình chế độ, một hôm vị nữ tu này ngỏ ý mời mọc: “Hãy về Việt Nam thăm thú một lần cho biết. Bây giờ Việt Nam cởi mở và tiến bộ hơn Phi Luật Tân rất nhiều”. Vào thời điểm đó và cho đến nay, kinh tế Phi Luật Tân vẫn cứ èo uột, tệ nạn xã hội đầy dẫy. Mặc dù là một nước dân chủ, Phi Luật Tân vẫn bị thế giới bên ngoài xem như một “bệnh nhân của Á Châu” (the sick man of Asia). Dù vậy, tôi vẫn thấy Phi Luật Tân là một nơi dễ sống: đa số người dân Phi lịch sự, lương thiện và tử tế. Thành ra trong câu chuyện trao đổi với vị nữ tu, tôi chỉ hỏi lại: “Thế ở Việt Nam có tự do báo chí như Phi Luật Tân không? Người Việt Nam có dám lên tiếng phê bình và ngay cả chế diễu các cấp lãnh đạo quốc gia như người Phi không?” Và câu hỏi mà tôi nghĩ đã khiến cho vị nữ tu “giao liên” này ấm ức đến độ phải câm miệng là: “Ở Việt Nam ngày nay, người dân có biết “lịch sự” xếp hàng khi chuẩn bị lên những phương tiện di chuyển công cộng như người Phi không?” Hay “Ở Việt Nam, có cảnh trên các phương tiện di chuyển công cộng, hành khách có tự làm công việc trả tiền, thối tiền và giúp nhau chuyển tiền đến tận tay người tài xế mà không sứt mẻ đồng xu nào như người Phi không?”

Tôi thường đánh giá “sức khỏe” của một đất nước qua những cử chỉ nhỏ như thế. Về kinh tế, Việt Nam có lẽ đã đạt được nhiều bước đáng kể. Tuy nhiên, liệu những giá trị nhân bản và đạo đức vốn tạo nên “sức khỏe” của một quốc gia, có thực sự song hành với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam không?

Trước năm 1975, trong chương trình triết học, tôi có được học đôi chút về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng phải “thành thực khai báo” là cái mớ lý thuyết ấy chẳng thấm vào đầu tôi bao nhiêu. Phải đợi cho đến khi cộng sản xâm chiếm Miền Nam, áp đặt lên chủ nghĩa cộng sản, tôi mới thực sự hiểu được thế nào là cộng sản. Thật vậy, chủ nghĩa cộng sản mà khi đến Pháp vào đầu thập niên 1982, tôi thường nói với người Pháp rằng tôi đã chạm đến bằng đầu ngón tay của tôi (toucher du doigt), chính là cái Ác đã được định chế hóa. Cộng sản tự bản chất là độc ác và biến cái xã hội mà họ lãnh đạo cũng thành độc ác.

Cứ tưởng phát triển kinh tế sẽ làm cho người cộng sản bớt độc ác hơn và bộ mặt của xã hội cũng nhân bản hơn. Nhưng chưa bao giờ tại Việt Nam người ta lên tiếng báo động về sự lên ngôi của cái Ác cho bằng hiện nay. Gần đây, nhiều người chú ý đến lời báo động của ông Lê Kiên Thành, quý tử của đồ tể Lê Duẩn, người đã từng giữ chức Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Trong một bài viết có tựa đề “Tôi cầu mong chúng ta sẽ thức tỉnh”, ông Thành ghi nhận: “Điều rõ nhất tôi cảm nhận được là chưa bao giờ cái xấu và tội ác đến với chúng ta bình thản như thế này. Người ta nhìn nó thản nhiên, như là điều tất yếu”. Người đã từng là thái tử đảng kể lại: “Đó là buổi sáng, khi tôi đọc tin về một cậu thanh niên cứa cổ đứa bé 8 tháng tuổi; đó là khi tôi đọc tin về những người dân cùng xông vào đánh chết một kẻ trộm chó...” Ông Thành phê phán: “Có những người trong chúng ta hôm nay dùng cái ác và cái xấu để sinh tồn. Việc một tên cướp bị tuyên án tử hình vì chém đứt tay một người  và trước đó đã chém 14 người, nhưng bà mẹ đẻ ra tên cướp đó không hề mảy may ân hận. Đó là hình ảnh đáng sợ nhất: một người mẹ biết quý con mà không còn coi sự sống của người khác ra gì” (1).

Ông Thành đã có lý để nhấn mạnh đến thái độ dửng dưng của rất nhiều người Việt Nam hiện nay trước cái Ác. Theo nhà báo Tưởng Năng Tiến, “nói một cách tóm tắt, hiểm họa lớn nhất của Việt Nam không phải là chế độ độc tài trong nước hay âm mưu xâm lấn biển đảo của Trung Quốc mà là sự dửng dưng của mọi người. Chính sự dửng dưng đến vô cảm của phần lớn dân chúng là điều đáng lo nhất hiện nay”. Dửng dưng trước tình hình đất nước, dửng dưng trước cái Ác, nhưng lại rất hăng say và ngay cả cuồng nhiệt đối với các thứ “sao” như tin tức của báo chí nhà nước ghi nhận: “Fan Việt đội mưa rét vạ vật ở sân bay đón sao Hàn. Đón sao Hàn giữa dịch Corona. Fan vây kín Tân Sơn Nhất để đón nhóm nhạc Hàn giữa đại dịch Corona. Fan bóng đá còn đông đảo và cuồng nhiệt hơn gấp bội. Việt Nam không ngủ, hàng triệu người xuống đường mừng nhà vô địch Sea Games” (2). Để cho đủ danh sách các “sao” được người Việt Nam hiện nay sùng bái, có lẽ tác giả Tưởng Năng Tiến cũng nên ghi thêm “siêu sao” Donald Trump!

Tháng Tư năm nay, khi nghĩ về cái Ác đang bao trùm và nhận chìm xã hội Việt Nam xuống vực thẳm, tôi cũng liên tưởng đến số phận của người dân A Phú Hãn. Chính phủ Mỹ vừa tuyên bố sẽ rút quân ra khỏi nước này. Viễn ảnh của sự trở lại của chế độ Taliban trên đất nước này là điều xem ra gần như tất yếu. Thế giới đã chứng kiến sự độc ác của chế độ này và một khi trở lại cầm quyền chắc chắn nó cũng sẽ không từ bỏ bộ mặt độc ác của nó.

Tôi nghĩ đến người dân A Phú Hãn bởi vì số phận của họ cũng giống như số phận của người Việt Nam. Mỹ đến rồi Mỹ đi, bỏ mặc cho cái Ác cày xéo cả một dân tộc.

Là công dân của một quốc gia, tôi không đứng bên lề chính trị. Nhưng dĩ nhiên, tôi “làm chính trị” theo cách thế của tôi. Và cách thế của tôi là tôi không sống chết cho một đảng chính trị nào cả. Tôi sống chết cho lẽ phải. Phải thì tôi dồn phiếu cho. Không thì tôi nghỉ chơi. Về nước Mỹ, tôi cũng “ba phải” như thế.

Bàn về sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa,  những người Việt Nam ủng hộ Đảng Cộng Hòa khăng khăng cho rằng chính cái Đảng Dân Chủ “thổ tả” đã khiến cho Miền Nam Việt Nam bị bức tử, vì Quốc hội mà họ nắm quyền kiểm soát đã cắt đứt viện trợ và chống lại việc dội bom xuống Bắc Việt. Những người Việt Nam sống chết cho Đảng Dân Chủ thì lại dựa trên sự kiện tổng thống thuộc Đảng Cộng Hòa Richard Nixon đã bắt tay với Trung Cộng để trút hết tội lỗi lên đầu Đảng này vì đã bán đứng đồng minh Việt Nam Cộng Hòa. Riêng tôi suy nghĩ một cách đơn giản: dù có thuộc Đảng nào đi nữa, Hoa Kỳ lúc nào cũng đặt quyền lợi của mình lên trên hết. Vì quyền lợi của họ, họ “đi vào” và vì quyền lợi của họ, họ “đi ra” và bỏ mặc cho cái Ác hoành hành trên một đất nước mà đã họ từng cam kết giúp đỡ.

Quyền lợi của nước Mỹ thật ra trước hết cũng chính là cái ghế của nhà lãnh đạo. Vì của ghế của ông, ông sẵn sàng bán đứng hay bỏ rơi đồng minh. Quyền lợi của nước Mỹ cũng là sự lãnh đạo của Đảng đang cầm quyền: sự lãnh đạo ấy được đặt lên trên số phận của một dân tộc khác. Và dĩ nhiên, quyền lợi của nước Mỹ xét cho cùng cũng là những thứ tự do cá nhân mà người Mỹ luôn đòi hỏi cho mình bất kể những mất mát, khổ đau và ngay cả mạng sống của người khác. Người Mỹ muốn dựng tượng nữ thần tự do trên khắp thế giới, nhưng tiếng kêu than của những người khốn khổ mà nữ thần này che chở, lại không được họ màng tới.

Tôi thường có ý nghĩ ấy khi suy nghĩ về hai cơn đại dịch đã và đang hoành hành tại Mỹ. Trước hết là đại dịch Covid-19. Văn minh nhứt thế giới, giàu có nhứt thế giới, có hệ thống y tế tiên tiến nhứt thế giới, vậy mà Hoa Kỳ lại là nước đứng đầu thế giới về con số người bị lây nhiễm và tử vong vì Covid-19. Tất cả chỉ vì hai chữ tự do: tự do chống lại những qui định cần thiết như đeo khẩu trang, tuân giữ giãn cách xã hội và tập trung đông người, tự do tập trung để “thờ phượng”...mặc cho dịch bệnh có cướp đi mạng sống của những người xung quanh. Ai có chết cũng mặc kệ, miễn là tôi được tự do!

Bênh cạnh đại dịch Covid-19, còn có một đại dịch khủng khiếp hơn: đó là đại dịch “bạo động bằng súng đạn”. Trong cái quốc gia lúc nào cũng muốn là “vĩ đại” nhứt thế giới lại xảy ra chuyện bắn giết như cơm bữa. Ai có chết vì súng đạn cũng mặc kệ, bằng mọi giá tôi phải bảo vệ quyền tự do mang súng và sử dụng súng của tôi! 

Tự do đã biến thành dửng dưng trước cái Ác và nỗi khổ đau của người khác. Cả thế giới đã theo dõi vụ án của Derek Chauvin, viên cảnh sát Mỹ đã sát hại người Mỹ gốc Phi Châu George Floyd dạo tháng Năm năm ngoái. Thước phim mà một thiếu nữ tình cờ quay được và được trưng ra như một bằng chứng sống động về hành vi sát nhân của Chauvin, cho thấy khi dùng 2 đầu gối đè lên ông Floyd cho đến độ nghẹt thở, viên cảnh sát này vẫn thản nhiên nhìn về hướng người đang quay phim bằng một cái nhìn mà ký giả John Blake của Đài CNN gọi là “còn tệ hơn cả sự hận thù”. Đó là cái nhìn của dửng dưng. Ký giả này viết: “Đây (cái nhìn của Chauvin) sẽ là một trong những hình ảnh tiêu biểu của thời đại chúng ta bởi vì nó nói lên một câu chuyện về chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc mà nhiều người không muốn nghe nói đến” (3).

Sự dửng dưng của xã hội Việt Nam trước cái Ác và chuyện đang xảy ra ở Mỹ không khỏi làm tôi nhớ lại lời cảnh cáo của ông Elie Wiesel (1928-2016), một người Do Thái đã từng sống sót từ cuộc diệt chủng do Đức Quốc Xã chủ xướng trong thời Đệ nhị Thế chiến  và được trao giải Nobel Văn Chương. Ông nói: “Phản nghĩa của tình yêu không phải là hận thù mà là dửng dưng”. Với tôi, dửng dưng trước cái Ác là tên gọi của cái Ác.  Nhìn nỗi khổ đau và chết chóc của người xung quanh mà ánh mắt của tôi như bất động, trái tim của tôi không thổn thức...thì tôi có khác gì thú vật chỉ biết chăm sóc cho bộ da riêng của mình.

 

 

 

 

Chú thích:

 

1.            baotiengdan.com/2021/04/13/vi-sao-tai-viet-nam-hom-nay-cai-ac-troi-day

2.            https://vietbao.com/a307720/s-t-t-d-tuong-nang-tien-nuoc-mien-nhin-tu-xu-viet

3.            https://edition.cnn.com/2021/04/24/us/derek-chauvin-eyes-indifference-blake/index.html

 

Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2021

Con vật có lý trí


 


Chu Văn

Tuần qua, ghé thăm một ông bạn chí cốt, thấy ông đang nằm ôm Ipad nghe chuyện ma của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn. Hỏi sao không theo dõi thế sự nữa, ông nói rằng ông “chán” lắm rồi, vì chính trị, nhứt là chính trị Mỹ, quá thối nát, nghe bẩn tai. Tôi chưa từng đọc, nghe hay say mê bất cứ chuyện ma nào của nhà văn kiêm MC Nguyễn Ngọc Ngạn. Nhưng với tôi, thoát khỏi cái vòng kim cô chính trị hiện nay không phải là dễ. Cụ thể, tôi đang bị ám ảnh bởi một nhân vật chính trị mà có lẽ hai thuật ngữ được nhà văn J.K Rowling sử dụng để nói đến nhân vật phản diện Voldemort trong tập truyện Harry Potter của bà diễn tả chính xác hơn cả. Thật vậy, Voldemort, trong thế giới phù thủy của nhà văn Rowling, đã tạo ra một sự thần phục, say mê hoàn toàn trên một số đám đông và một nỗi sợ hãi, kinh ghét khủng khiếp trên những đám đông khác đến độ tất cả mọi người đều chỉ dám nhắc đến ông như “kẻ không nên gọi tên” (He Who must not be named) và “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” (The One every knows who he is). Tôi không muốn nhắc đến tên nhân vật chính trị đó, bởi vì ai “cũng biết ông là ai” và ai cũng đều biết rằng ông hiện đang gây xáo trộn và chia rẽ phải nói là khủng khiếp trong quan hệ xã hội khắp mọi nơi chớ không riêng gì tại Hoa Kỳ.

Mới đây tôi có đọc được một bài phóng sự của Joe Pinsker trên báo The Atlantic. Trước hết tác giả ghi lại mối quan hệ sứt mẻ giữa 2 người phụ nữ mà tình bạn đã có từ 3 thập niên qua. Trong 15 năm qua, cứ 2 ngày thì họ đi ăn trưa với nhau một lần và rất thường đi nghỉ hè chung với nhau. Họ cũng có mặt trong hầu hết những dịp sinh nhựt, cưới hỏi hay ma chay trong gia đình của nhau. Nhưng người phụ nữ được ký giả Pinsker đặt tên là Luna cho biết kể từ khi “kẻ mà cũng biết là ai đó” được bầu làm tổng thống, người bạn của bà đã say mê cuồng nhiệt ông ta. Luna đề nghị nên dẹp “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” sang một bên để duy trì tình bạn. Nhưng người phụ nữ kia thà đánh mất một tình bạn keo sơn hơn là từ bỏ “niềm tin” đối với nhân vật chính trị đó.

Ký giả Pinsker trích dẫn một cuộc thăm dò do hãng thông tấn Reuters và Ipsos thực hiện. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy kể từ sau chiến thắng hồi năm 2016 của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”, 16 phần trăm những người được hỏi ý kiến cho biết rằng vì cuộc bầu cử, họ đã cắt đứt liên lạc với một người bạn hay một người thân trong gia đình. Tôi nghĩ nay tỷ lệ ấy cao hơn rất nhiều.

Trong số những người được ký giả Pinsker hỏi ý kiến có một phụ nữ gốc Việt tên là Helen Nguyễn. Là một kỹ sư điện toán, người phụ nữ gốc Việt 41 tuổi  này cho biết vì bà không thích “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” cho nên đã có những cuộc cãi vã gay gắt với cha mình. Rồi kể từ khi Quốc hội Liên bang Mỹ chứng nhận chiến thắng của ông Joe Biden, cha bà, mặc dù cùng sống chung trong gia đình, đã không còn nhìn mặt bà nữa. Bà nói với ký giả Pinsker: “Tôi cảm thấy như thể chúng tôi là những người xa lạ mặc dù sống chung dưới một mái nhà”.

Trên đây chỉ là một điển hình trong rất nhiều cuộc chia tay giữa bạn bè, người thân trong cộng đồng người Việt tại Mỹ.

Một số người được ký giả Pinsker tiếp xúc khẳng định rằng những ai ủng hộ “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” không đủ tư cách để trở thành một người bạn của họ. Họ nói rằng thái độ này nói lên một sự thiếu sót về mặt đạo đức (1).

Càng bước vào tuổi già, tôi càng trân quý tình bạn và dĩ nhiên, với tôi, tình bạn được kết nối dựa trên một số những giá trị mà 2 bên cùng chia sẻ với nhau. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, đó là chuyện thường tình trong quan hệ xã hội. Nhưng sau nhiệm kỳ 4 năm của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”, mặc dù đang sống ở tận Miệt Dưới này, tôi thấy mình cũng đã mất một số bạn và quan hệ với một số khác đã trở nên nếu không sứt mẻ thì cũng lạnh lùng. Có những người tôi rất muốn gặp lại để hàn gắn một tình bạn đã bị sứt mẻ, nhưng cánh cửa của hòa giải vẫn mãi mãi bị đóng kín. Số khác, rất đông, thì lại có thái độ giữ kẽ mỗi khi gặp lại. Tuyệt nhiên, ai cũng nắm vững một quy luật bất thành văn: chớ đụng đến tên của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”. Tôi vẫn cố gắng giữ liên lạc với bạn bè và người thân mà tôi biết rõ đang say mê cuồng nhiệt và ngay cả sùng bái “kẻ mà ai cũng biết là ai đó”. Trên đời này có quá nhiều điều khó hiểu và điều khó hiểu nhứt hiện nay đối với tôi đó là sự say mê cuồng nhiệt và sùng bái ấy.

Mới đây một cựu luật sư của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” là bà Sydney Powell đã đưa ra một lời giải thích mà tôi không biết có nên xem như một chút ánh sáng chiếu rọi vào sự say mê cuồng nhiệt và sùng bái của bạn bè và người thân của tôi đối với nhân vật chính trị này không. Trong một lần xuất hiện bên cạnh luật sư nổi tiếng của nhân vật này là ông Rudy Guiliani ngày 19 tháng Mười Một năm vừa qua, bà Powell đã thao thao bất tuyệt với vô số “bằng chứng” về gian lận bầu cử đặc biệt nhắm vào hệ thống điện toán bầu cử có tên là Dominion Voting Systems. Vì uy tín của mình bị hạ giảm nặng nề cho nên hãng này đã đâm đơn kiện bà Powell và đòi một số tiền bồi thường lên đến 1 tỷ 3 trăm triệu Mỹ kim. Dĩ nhiên tất cả những “bằng chứng” mà bà Powell đưa ra, trong đó có cả chuyện hãng Dominion có liên hệ với nhà tộc tài của Venezuela là ông Hugo Chavez vốn đã qua đời cách đây 8 năm, đều là những lời dối trá lố bịch. Biết không thể chống chế được khi phải ra hầu tòa vì tội dựng chuyện để bôi nhọ hãng Dominion cho nên qua luật sư của mình, bà Powell xin tòa bác đơn kiện của hãng này. Lý do bà đệ trình lên tòa là: khi đưa ra các “bằng chứng” để tố cáo hãng Dominion, bà chỉ nói lên một “ý kiến” và bà biết rõ rằng không có một “người có lý trí” (reasonable person) nào tin lời bà (2).

Tôi thật chưng hửng khi nghe lời biện minh của bà Powell về những lời dối trá trắng trợn của bà. Tôi không dám cho rằng bạn bè và người thân của tôi là những người “không có lý trí” khi họ tin vào những lời dối trá của bà Powell và nhứt là của “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” và trên 30 ngàn lời nói dối của ông ta. Cho tới nay, mặc dù việc ông Joe Biden đã tuyên thệ nhậm chức và đã hành xử như một tổng thống từ hơn 2 tháng nay là một sự thật không thể chối cãi được, vậy mà nhiều bạn bè và người thân của tôi vẫn tiếp tục cho rằng ông đã đánh cướp cuộc bầu cử và tin rằng “nay mai” “kẻ mà ai cũng biết là ai đó” sẽ trở lại cầm quyền và bắt nhốt toàn bộ các lãnh tụ của Đảng Dân Chủ, kể cả cựu Tổng thống Barack Obama và bà Hillary Clinton. Bên cạnh niềm hy vọng hão huyền ấy còn có vô số thuyết âm mưu hiện đang được phát tán trên các trang mạng xã hội.

Lời thú nhận của bà Powell không thể không làm tôi nhớ đến định nghĩa về con người của một trong những cha đẻ của triết học Tây Phương là Aristotélès (384-322). Theo triết gia Hy Lạp  này, “người là con vật có lý trí”. Tôi vẫn hiểu một cách rất đơn giản về lý trí: đó là khả năng biết phân biệt thiện - ác và chân - giả. Thú vật không có khả năng đó. Thú vật chỉ hành động theo bản năng. Khi con người chỉ sống và hành động theo bản năng, nhứt là những bản năng thấp hèn thì khoảng cách giữa người và thú dễ bị xóa bỏ.

Mỗi năm cứ đến Tháng Tư Đen thì có lẽ hầu như người Việt tỵ nạn nào cũng đều nghĩ đến cái khoảng cách giữa người và thú khi những người Cộng sản xâm chiếm Miền Nam và áp đặt chủ nghĩa cộng sản. “Sâu bọ lên làm người” và “ người xuống hàng súc vật”. Nghe thật oái oăm, nhưng câu đối dường như muốn nói lên một sự thật phũ phàng là khi lý trí bị đè bẹp thì con người cư xử với nhau chẳng khác nào hay còn thua cả súc vật.

Hôm thứ Bảy 27 tháng Ba vừa qua, chính phủ quân phiệt Miến Điện đã cử hành Ngày Quân Lực. Song song với một cuộc diễn binh rầm rộ là những bữa tiệc linh đình của các tướng lãnh. Đại diện nhiều nước, trong đó dĩ nhiên có Nga và Trung Cộng, đã có mặt trong những cuộc liên hoan ấy. Và cùng ngày hôm đó, các lực lượng an ninh Miến đã xả súng vào đám đông những người biểu tình không có võ trang khiến cho gần cả trăm người chết, trong đó có cả trẻ con. Nhìn vào cuộc diễn binh, những bàn tiệc linh đình bên cạnh cảnh máu đổ thịt rơi của người dân vô tội, có người đã nhớ lại câu nói để đời của ông tổ chủ nghĩa Marxit: “Chỉ có thú vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại để chăm sóc cho bộ da của mình”.

Chẳng có ai muốn “xuống hàng súc vật” cả. Ai cũng muốn người khác tôn trọng nhân phẩm được xây dựng trên lý trí của mình. Người Việt Nam đau buồn vì một Tháng Tư Đen.  Người Mỹ gốc Phi Châu cũng có một Tháng Tư để tưởng niệm. Thật vậy, ngày mùng Bốn Tháng Tư năm 1968 là ngày một trong những nhà tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng nhứt thế giới là cố mục sư Martin Luther King đã bị thảm sát. Ngày hôm đó, vị mục sư da đen này đã đến thành phố Memphis, Tiểu bang Tennessee để lãnh đạo một cuộc đình công và tuần hành do các nhân viên vệ sinh da đen trong thành phố tổ chức để yêu cầu được hưởng một đồng lương công bình và cải thiện những điều kiện làm việc. Ngày hôm đó, những người tham gia cuộc biểu tình đã đeo trước ngực một tấm bảng trên đó có viết hàng chữ: “Tôi là một con người” (I am a man). Khi những nhân viên vệ sinh da đen tại thành phố Memphis đeo tấm bảng “Tôi là một con người” trước ngực, họ không những muốn khẳng định sự bình đẳng như được ghi trong Hiến Pháp của Hoa Kỳ, mà dường như cũng còn muốn nhắc lại cả một lịch sử đau thương của một chủng tộc đã bị nô lệ hóa và đối xử chẳng khác nào thú vật chỉ vì màu da của họ.

“Tôi là một con người”. Đó là một khẩu hiệu đáng được đưa ra để nghiền ngẫm và nhứt là tự vấn lương tâm. Liệu tôi có thật sự là “một con người” không khi tôi chối bỏ, xúc phạm hay chà đạp phẩm giá của người đồng loại? Liệu tôi có thật sự là “một con người” không khi tôi từ bỏ cái phẩm giá cao quý của con người là lý trí để chối bỏ sự thật và hùa theo những lời dối trá độc ác? Liệu tôi có là “một con người” không khi không dám lên tiếng nói lên điều cần phải nói hay điều mà người ta tránh nhắc tên chỉ vì không muốn làm phật lòng một số người dù biết rằng đó vẫn là một ung thư trong giai đoạn di căn đáng sợ?  

Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “con người” hàm chứa một sự thật thâm sâu: sống là một cuộc chiến liên lỉ trong đó nếu những bản năng thấp hèn lấn lướt lý trí thì nhân cách sẽ bị thui chột. Nói cách khác, phần “người” chỉ thật sự được thăng hoa khi phần “con” được thu nhỏ lại.

  

Chú thích

1.      https://www.theatlantic.com/family/archive/2021/03/trump-friend-family-relationships/618457/

2.      https://www.news.com.au/world/north-america/us-politics/trump-lawyer-says-no-reasonable-person-would-believe-her/news-story/40b1c459713f4dd9743d00d02ac78778