Chu Thập
22.5.15
Trong ngôi vườn được tôi đặt cho cái tên “quê hương bỏ túi”, bước vào mùa Đông, hầu như cây nào cũng bắt đầu ủ rũ, héo tàn. Duy cây
vú sữa thì vẫn xanh tươi. Đây là một trong những kỷ niệm đáng ghi nhớ nhứt của tôi từ một chuyến đi
Port Douglas, Bắc Queensland, cách đây 4 năm. Tôi không ngờ một thân cây nhỏ èo
uột được tôi mang về từ vùng xứ nóng của Bắc Úc đã được thuần hóa để thích nghi
một cách tuyệt vời với khí lạnh của tiểu bang New South Wales. Tôi cho nó một
chỗ đứng trong “quê hương bỏ túi” trước hết là để nuôi dưỡng nỗi niềm thương nhớ
quê hương của tôi. Nhưng quê hương đối với tôi không chỉ là cảnh vật, cây cối,
mà còn là những con người cụ thể. Trong những con người cụ thể ấy dĩ nhiên cha
mẹ là những người chiếm chỗ đứng ưu tiên trong ký ức của tôi.
Vào khoảng giữa thập niên 1950, mẹ tôi ra vào trên con đường Nha Trang-Sài
Gòn như cơm bữa. Chuyến đi, bà thường chở cau vào Chợ Ông Lãnh. Chuyến về, bà
tha về đủ thứ đặc sản của Miền Nam, đặc biệt từ Búng, Lái Thiêu, Biên Hòa. Bên
cạnh thực phẩm, mẹ tôi còn mang về rất nhiều loại cây ăn trái như măng cụt, sầu
riêng, cam đường, sa bô chê và vú sữa. Những loại cây chiết này chỉ cần được
cho xuống đất trong một hai năm là có trái. Trong mảnh vườn nhỏ trước nhà, cha
tôi sưu tầm đủ loại cây trái của Miền Nam. Riêng hai cây vú sữa được ông nâng
niu và trồng ngay phía sau hè. Đây là loại vú sữa nếp, vỏ mỏng, mầu xanh. Khi nào vỏ bóng lên và chuyển sang mầu hồng là biết nó chín. Mỗi năm, mùa nghỉ Tết của
tôi cũng là mùa vú sữa. Hai cây vú sữa này đã đồng hành với tôi từ lúc tôi cắp
sách đến trường cho đến khi tôi bước vào tuổi “tam thập như lập” để chính thức rời mái ấm gia đình. Nhưng dù đi đâu và ở
đâu, tôi vẫn nhớ về hai cây vú sữa được cha tôi trồng sau hè ấy. Cha tôi vẫn tiếp
tục chăm sóc và nâng niu hai cây vú sữa ấy. Nghe nói, trước khi nằm một chỗ và
ra đi ở tuổi 95, cha tôi vẫn còn tự mình leo lên hai cây vú sữa ấy để hái trái
cho con cháu. Tôi không biết giờ này hai cây vú sữa đã gần lục tuần ấy có còn đứng
ở phía sau hè nhà tôi không. Không hiểu sao tình tự quê hương của tôi lúc nào
cũng đọng lại ở hình ảnh của hai cây vú sữa ấy. Chính vì nhớ nhà, nhớ cha nhớ mẹ,
nhớ khung cảnh thân thương ấy mà tôi đã cố gắng đi tìm và trồng cho được một
cây vúa sữa bên hông nhà. Sự hiện diện của cây vú sữa ở phía sau nhà tôi hiện
nay luôn gợi lại những kỷ niệm đẹp của cả một thời thơ ấu và thanh niên của
tôi. Tôi trồng nó là để nhớ đến công lao khó nhọc, dầm mưa dãi nắng, tảo tần của mẹ tôi. Tôi trồng nó là để nhớ đến những hạt
giống của “gieo trồng” mà cha tôi đã cấy vào trong tôi.
Thực vậy, tình yêu thiên nhiên và một phần kinh nghiệm cày cấy, gieo trồng
của cha tôi vẫn tiếp tục sống trong ngôi vườn của tôi ở miền duyên hải trung phần
của nước Úc này. Bước vào tuổi già, ngoài rau xanh và các thứ loại củ, tôi chỉ
trồng những loại cây ăn trái ngắn hạn như chuối, thanh long, mía, cam quít, ổi...Riêng
cây vú sữa, tôi trồng để tưởng nhớ cha mẹ và quê hương hơn là trông chờ hoa quả
của nó. Nó đã “an cư lạc nghiệp” được trong “quê
hương bỏ túi” của tôi là tôi mừng rồi. Năm nay, một giây bí Nhựt Bổn được tôi
trồng bên cạnh đã leo lên thân cây vú sữa và treo tòn teng hai quả lên cành của
nó. Ông bạn họa sĩ kiêm nhiếp ảnh gia của tôi mà thấy được cảnh ấy thì chắc chắn
đã có được một tấm ảnh để đời. Nhìn hai quả bí treo lủng lẳng trên thân cây vú
sữa, tôi chợt có ý nghĩ: kết quả của gieo trồng vượt ra ngoài điều trông đợi của
con người.
Trong cuộc sống, có khi chính sự gieo trồng lại có ý nghĩa và quan trọng
hơn hoa quả người ta có thể gặt hái được. Trong những ngày vừa qua, tôi vẫn tiếp
tục suy ngẫm về câu nói của Văn Thi sĩ Tô Cách Lan Robert Louis Stevenson (1850-1894) được một người bạn sưu tầm và đưa vào danh
sách 20 bài học quí giá của cuộc sống. Ông Stevenson khuyên: “Đừng đánh giá mỗi ngày bằng những gì bạn gặt
hái được, mà bằng những hạt giống bạn gieo trồng” (Don’t judge each day by the harvest you reap, but by the seeds you plant).
Về chuyện gieo trồng, ở Việt Nam cũng có một người đã tỏ ra rất thành thạo.
Câu nói thoát ra từ cửa miệng của ông: “10 năm trồng cây trăm năm trồng người”
đã được những người cộng sản Việt Nam xem như Kinh Thánh và mang ra tụng niệm từ
hơn 70 năm qua. Rất tiếc, người cộng sản Việt Nam quên mất rằng con người luôn
có chủ trương ăn cắp và ăn cướp bất cứ thứ gì, đã chôm câu nói trên đây của một
chính trị gia nổi tiếng của Tàu là ông Quản Trọng, thời Đông Châu Liệt Quốc. Ngoài
ra, thứ “giống” người mà ông muốn trồng ấy đã làm bại hoại đất nước và dân tộc
đến một mức độ gần như vô phương cứu chữa.
Năm nay, nhân dịp kỷ niệm sinh nhựt thứ 125 của ông hôm thứ Ba 19 tháng 5 vừa qua, người ta lại nói đến chuyện gieo trồng
của ông và lần này, có người nhắc đến cây vú sữa được chính tay ông trồng trong
vườn của ông ở Hà Nội. Theo báo Dân Trí trong nước, “khoảng cuối năm 1954, tại
Cà Mau đã diễn ra buổi tiễn đưa cuối cùng đoàn tập kết cán bộ từ Nam ra Bắc.
Trong một cử chỉ được cho là rất ý nghĩa, một người phụ nữ thường được gọi là
Má Tư đã nhờ đoàn người tập kết này mang theo một cây vú sữa tặng cho “Bác Hồ”
để gọi là thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với “Bác”. Món quà đã được
“Bác” đón nhận như chính tấm lòng kính yêu của đồng bào miền Nam dành cho mình.
Chính tay “Bác” đã trồng cây vú sữa trong khu vườn gần nhà làm việc của “Bác”
và cũng chính “Bác” ngày ngày tự tay chăm sóc, tưới nước cho nó”.
Không biết cây vú sữa này có sinh hoa kết trái không và có còn hiện diện ở
“Nước Bắc” không. Thực ra, ông Hồ Chí Minh trồng cây vú sữa của Má Tư đâu phải
để trông đợi thưởng thức hoa quả của nó cho bằng “gieo trồng” vào đó “tấm lòng”
của ông đối với người dân miền Nam. Tôi không biết được “tấm lòng” ấy như thế
nào. Ông có thực sự yêu thương người đồng bào ruột thịt miền Nam của tôi không?
Ông có mong cho người đồng bào ruột thịt ấy được hưởng cuộc sống ấm no, thanh
bình không? Tôi nghi ngờ tấm lòng ấy lắm. Bởi lẽ ông và các “đồng chí” của ông
đã từng tuyên bố rằng họ “đánh” Miền Nam là đánh thuê cho Liên Xô và Trung Cộng.
Chỉ biết rằng trong cây vú sữa được chính tay ông trồng ấy, ông đã đặt vào mầm
mống của hận thù giai cấp, hận thù dân tộc để đẩy bao nhiêu
thanh niên thiếu nữ nhào vào lò lửa của chiến tranh như những con thiêu thân và
cuối cùng biến miền Nam của tôi thành một nơi có tất cả mọi thứ xấu xa tệ hại nhứt
trên đời này. Xấu xa và tệ hại đến độ chỉ cần nhìn vào đó cũng đủ để cảm nghiệm
được thế nào là hỏa ngục ngay trên trần gian.
Thông thường người ta thường xem quả thì biết cây. Nhưng thi sĩ Stevenson đã có một cái nhìn khác khi
ông khuyên đừng đánh giá cuộc đời bằng những gì ta gặt hái được, mà bằng những
gì ta gieo trồng. Hãy thử nhìn lại hiện tình đất nước Việt Nam hay bất cứ một
quốc gia cộng sản nào. Ở Việt Nam, người cộng sản đã chiến thắng, đất nước đã
được thống nhứt. Bên Trung Quốc, nền kinh tế đã được xếp vào hạng thứ nhì trên
thế giới và biết đâu nay mai lại chẳng qua mặt Hoa Kỳ để trở thành đệ nhứt siêu
cường. Đó là thành tựu mà những người cộng sản đã đạt được và lúc nào cũng tự
hào về những thành tựu ấy. Nhưng nếu nhìn kỹ vào cuộc sống xã hội và con người hiện nay tại Việt Nam và Trung Quốc, người ta
sẽ nhìn thấy ngay tức khắc những “hạt giống” mà những người như Mao Trạch Đông
và Hồ Chí Minh đã gieo trồng vào lòng dân tộc của họ. Những hạt giống đó là gì
nếu không phải là hận thù, ích kỷ, tham lam, vô cảm... Tựu trung, đó là những hạt
giống của hủy hoại và chết chóc.
Nhìn cây vú sữa xanh tươi trong “quê hương bỏ túi” của mình, tôi không thể
không nghĩ đến những “hạt giống tình yêu” mà con người có thể gieo trồng được.
Tôi tin rằng chỉ có những hạt giống như thế mới bất tử và mang lại niềm hy vọng
và niềm vui đích thực cho con người. Không cần phải chờ đợi được đáp trả, bất cứ
một nghĩa cử yêu thương vô vị lợi nào cũng đã là một phần thưởng cho chính con
người. Hoa trái của tình yêu có thể không nhìn thấy được. Nhưng tự nó, tình yêu
được thực thi và gieo trồng luôn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người.
Có lẽ đây là điều mà nhạc sĩ Vũ Thành An đã cảm nhận được và cũng muốn gieo
trồng khi sáng tác một loạt ca khúc mang tên “Hạt giống tình”, được phổ nhạc hay cảm hứng từ một số bài thơ của
thi sĩ Đỗ Vẫn Trọn. Nếu ở đầu thập niên 1960, tác giả của những “bài ca không
tên” bất hủ đã ngậm ngùi thương tiếc những mối tình dang dở của mình, thì nay một
Vũ Thành An, phó tế trong Giáo hội Công giáo, chỉ còn có “mỗi một mối tình mang
theo” là tình yêu tinh ròng. Ông giải thích: “Trải qua biết bao thăng trầm
trong cuộc sống, giờ đây, tôi nhận ra rằng có một tình yêu không bao giờ mang lại
đau khổ, nó chỉ mang lại hạnh phúc thôi, đó là tình yêu thật. Tạo dựng khối
tình đó và con người ta sẽ mang theo. Về phương nào đó thì mình chưa biết.
Trong mắt tôi nhìn thấy bây giờ, quan trọng là cái khối tình, tôi gọi đó là
tình yêu tinh tuyền”. Ông nói tiếp: “Ngay trong những công việc nhỏ hàng ngày của
mình, mình đều đặt trên nền tảng tình yêu. Tình yêu đó rất tinh tuyền. Nó là của
riêng mình, mình đang mang theo nó đến cuối đời” (x. Cát Linh, phóng viên của Đài Á Châu Tự Do 17/5/2015).
Các nhà khảo cổ đã ngạc nhiên vô cùng khi khám phá ra những hạt giống được
chôn vùi trong những kim tự tháp của Ai Cập hay trong lòng đất ở một nơi nào đó
từ mấy ngàn năm qua vẫn còn có khả năng nẩy mầm. Đó là sự bền bỉ của những hạt
giống trong thiên nhiên. Nói gì đến hạt giống của tình yêu. Nó sẽ mãi mãi tồn tại.
Như một kinh “Tin Kính” trong Đạo của tôi, tôi tin rằng chỉ có hạt giống tình
yêu mà con người gieo trồng mới làm cho nó thành bất tử.