Chu Thập
1.10.11
Tôi dễ bị ray rứt vì một hành vi xúc phạm
đến người khác và cũng dễ bị đánh động bởi một nghĩa cử nhỏ của người khác.
Cách đây 40 năm, lúc còn dạy học và làm
giám thị trong một trường dòng tu Công giáo, trong một giờ sinh hoạt ngoài trời,
tôi đã lỡ tay “tát” vào mặt một học sinh lớp đệ thất. Vào thời điểm đó, chuyện sửa
trị bằng hình phạt hay ăn vài thước kẻ vào mông là chuyện bình thường, chẳng
bao giờ bị luật pháp lên án. Cái tát của tôi chỉ vừa đủ để vãn hồi trật tự chứ
chẳng gây chút “chấn thương” thể xác hay tinh thần gì cả. Thế mà tôi vẫn cứ mãi
bị “ray rứt” về hành động thiếu tự chủ ấy.
Mới đây, nhân chuyến đi Việt nam của
tôi, người học sinh ấy, nay là một “đại gia” ở Sài gòn, đã nằng nặc đòi gặp tôi
và mời vợ chồng tôi cùng một số bạn bè đi ăn ở Chợ lớn. Trong bữa ăn, anh có nhắc
lại chuyện cũ, dĩ nhiên, không phải để trách móc tôi, mà để biện minh hay đúng
hơn tự hào về cái tính nghịch ngợm phá phách khiến anh bị hầu hết các giáo sư
trong lớp chiếu cố. Vui vì được gặp lại một người học trò cũ còn nhớ đến mình,
nhưng tôi vẫn cảm thấy cái hành vi xúc phạm của 40 năm trước ấy cứ đeo đuổi
mình.
Cũng may, trong cuộc đời, người ta không
chỉ bị ám ảnh vì những hành vi xúc phạm của người khác, mà cũng luôn cảm thấy
được vực dậy nhờ không biết bao nhiêu nghĩa cử nhỏ đã nhận được. Tôi vẫn luôn
trân quý và giữ kỹ trong ký ức vô số những sự đối xử tốt mà người khác dành cho
tôi hoặc tôi đã được mục kích.
Trong chuyến về thăm quê hương vừa qua,
tôi ghi nhớ hai hình ảnh đẹp. Trước hết là chuyện xảy ra chỉ một thoáng ở
Singapore là nơi tôi dừng chân đúng một ngày trước khi về Việt nam. Singapore
là xứ sở mà du khách chỉ có thể ca ngợi chớ không có gì để phiền trách. Ngoài
chuyện kỷ luật, trật tự, vệ sinh, tôi thực sự ngây ngất trước những bông hoa được
trồng dọc suốt theo con đường từ phi trường về thành phố. Từ trong xe buýt nhìn
ra những thảm hoa, du khách có thể quên cái nắng nóng ngột ngạt của vùng nhiệt
đới. Nhưng với tôi, bông hoa rực rỡ nhứt đuợc ghi đậm trong tâm trí tôi là hình
ảnh của một người mẹ trẻ và cậu con trai trên 10 tuổi trên một chuyến xe lửa ngầm.
Khi chúng tôi vừa bước lên xe, hai mẹ con đã nhanh nhẹn đứng lên nhường chỗ cho
vợ chồng tôi. Người mẹ và cậu con trai đã không làm cử chỉ ấy như một cái máy,
mà với một nụ cười thân thiện, dễ mến. Singapore không thực sự đánh động tôi bằng
sự giàu sang, mà chỉ bằng một nghĩa cử nhỏ ấy.
Hình ảnh thứ hai mà có lẽ tôi sẽ không
bao giờ quên là nụ cười “thiên thần” mà tôi đã bắt gặp trên khuôn mặt một cô
gái trẻ trong khu phố cổ của Hà nội. Đa số các thiếu nữ Hà nội có làn da trắng
mịn. Nhưng đa số các cô, nói theo cách nói thời thượng ở Việt nam, đều “chảnh” cả. Nhưng riêng cô gái mà tôi gặp
trước cửa một văn phòng bán vé máy bay hôm đó quả là một thứ bông hoa quý hiếm
giữa cái thủ đô “lầy lội” cả về thể lý lẫn tinh thần này. Hôm đó, vừa đến thủ
đô “Nước Bắc”, cầm bản đồ của trung tâm Hà nội trên tay, đứng giữa phố Hàng Bài
hay Hàng Mã gì đó, tôi chẳng biết phải đi về hướng nào để ra Hồ Hoàn Kiếm. Đang
lớ ngớ giữa rừng người, bỗng gặp một cô gái vừa dựng xe máy trước văn phòng bán
vé máy bay. Linh tính giúp tôi lấy can đảm để ngỏ lời và hỏi thăm về đường sá, mà
không sợ bị chửi hay lạnh nhạt như thường xảy ra. Người thiếu nữ mà tôi đoán ở
độ trăng tròn không những nở nụ cười thân thiện và tận tình giải thích từng đường
đi nước bước, mà sau đó còn cúi người chấp tay vái chào từ giã như một người con
gái Thái lan chính hiệu. Hình ảnh của cô thiếu nữ và nghĩa cử của cô đã làm cho
ngày hôm đó trở thành một trong những ngày vui và ý nghĩa nhứt trong chuyến đi
Việt nam của tôi.
Tôi biết rằng mình sẽ khó quên Hà nội chỉ
vì một cử chỉ nhỏ ấy của cô thiếu nữ. Trong suốt một tháng rong ruổi hầu như khắp
đất nước, tôi ghi nhận một điều: ở Việt nam hiện nay, kể từ khi có một người tự
xưng là cha già và bác của cả dân tộc và được tôn vinh với danh xưng “Vĩ đại”
thì dường như người ta thích lập những thành tích “vĩ đại” hơn là quan tâm đến chuyện
nhỏ và những nghĩa cử nhỏ.
Đi từ Bắc chí Nam, tôi nhận thấy các
doanh trại quân đội “nhân dân”, công an, các trụ sở của Ủy ban nhân dân hay đảng
bộ, các đài tưởng niệm liệt sĩ...đều là những tòa nhà sang trọng hay những công
viên hoành tráng. Bên cạnh đó có khi là một khu phố nghèo nàn bẩn thỉu hay một
khu dân cư lụp xụp. Nhưng nổi bật hơn cả là các tượng đài. Trong những ngày đi
bộ dọc theo bến Ninh Kiều ở Cần Thơ, mỗi lần nhìn lên tượng đài của Hồ chí Minh
“vĩ đại”, tôi không thể không nhớ đến câu ca dao dân giã được sáng tác liền sau
75: “Chiều chiều ra bến Ninh Kiều, dưới
chân tượng Bác đĩ nhiều hơn dân”.
Xót xa hơn nữa khi mới đây, tôi lại nghe
nói ở Quảng Nam, “thành đồng của cách mạng”, người ta đang nghĩ đến chuyện xây
một Tượng Mẹ Việt Nam lớn nhứt thế giới. Như báo Việt luận trong số ra ngày thứ
sáu 23 tháng 10 vừa qua đã đưa ra nhận xét: “Bốn trăm mười tỷ đồng bỏ ra xây dựng “tượng đài mẹ Việt nam anh hùng”,
con số đó hoàn toàn không nhỏ, và nó lớn gấp bội khi mà đời sống người dân hiện
tại vẫn còn nhiều bà mẹ già mỗi ngày chỉ kiếm được chưa đến 10 ngàn đồng đề sống
qua ngày”.
Trên báo Calitoday, tác giả Nguyệt Quỳnh
đã kêu gọi: “Xin đừng dựng tượng đài cho
mẹ trên mảnh đất nghèo xơ, nghèo xác này. Mảnh đất mẹ để lại cho con từ ngàn xưa
đâu có những tượng đài tráng lệ, nhưng mỗi vóc đất trên nắm tay con là xương là
thịt, là dấu tích của những hy sinh vô bờ, của những vinh quang kỳ vĩ. Chưa bao
giờ đất mẹ lại có nhiều tượng đài như ngày hôm nay, những tượng đài vô cảm, đứng
kiêu hãnh nhìn ra biển đông khi các con mẹ bị tàu Trung quốc rượt đuổi, bức hại...
Dựng
tượng đài cho mẹ làm chi trên mảnh đất nghèo khó này và hàng ngàn vùng nghèo
khác trên cả nước. Mẹ đứt ruột nhìn các chắt, các chít của mẹ bơi qua sông đi học
như ở Quế Sơn. Ai quên được cảnh những cháu học sinh thơ dại chết chìm ở Nghệ
An. Vào đúng ngày 19 tháng 5 năm nào, khi lãnh đạo rình rang khánh thành tuợng
đài Hồ chí Minh, trị giá 50 tỉ đồng, ở Nghệ An thay vì làm một cái cầu đơn sơ
cho trẻ em đi học. Chỉ tám tiếng đồng hồ sau khi tượng đài được khánh thành, một
thảm họa kinh hoàng đã xảy đến. Mưa gió đã lật úp chiếc xuồng nan, lấy đi sinh
mạng của 18 em học sinh tiểu học!!” (Nguyệt Quỳnh “Lời Tượng Mẹ”, Calitoday,
ấn bản điện tử, 8/10/2011)
Người trong nước có đủ lý do để phẫn nộ
khi đứng trước những tượng đài “vĩ đại” được dựng lên khắp nơi. Có quá nhiều cụ
bà phải làm đủ mọi công việc để kiếm sống và nuôi cháu chắt. Trẻ em Việt Nam vẫn chưa được giáo dục miễn
phí, đến trường bằng những kiểu cách kinh hoàng, khi đau bịnh vẫn phải chia
nhau giường bệnh...
Riêng tôi, cũng như các em thiếu nhi
trong cuốn phim “Chuyện tử tế” của đạo
diễn Trần văn Thủy được thực hiện hồi đầu thập niên 80, “vĩ đại” thì tôi chẳng thấy đâu cả, mà chỉ thấy sự lạc hậu mà một chế
độ lúc nào cũng rêu rao khẩu hiệu “thực hiện nếp sống văn minh” lại chẳng bao
giờ biết cảm thấy xấu hổ!
Một trong những điều nhỏ nhứt mà lẽ ra
cái chế độ đó phải biết cúi đầu, gục mặt xấu hổ, phải nói đến trước tiên là
tình trạng thiếu nhà vệ sinh công cộng một cách không thể tưởng tượng được
trong thế kỷ 21 này. Là một người Việt nam, cứ mỗi lần thấy có một khách ngoại
quốc phải buộc bụng đi vào một nhà vệ sinh công cộng ở Việt nam, tôi chỉ muốn độn
thổ. Không ngoa để nói rằng số tượng, đài ở Việt nam có lẽ nhiều hơn nhà vệ
sinh công cộng. Khi có nhu cầu, tìm được một nhà vệ sinh công cộng mừng hết lớn,
đến nơi mới biết nhà vệ sinh chỉ mở cửa theo giờ qui định! Chẳng lẽ tào tháo không
được phép rượt ngoài giờ qui định? Trong
đa số các trường hợp, nhà vệ sinh công cộng nào cũng có người ngồi gác và thu lệ
phí ngay phía trước. Trong cảnh bị “thúc bách”, người ta lại bị buộc phải cởi
giày ra để mang vào một đôi giép dơ bẩn đặt ở trước cửa nhà vệ sinh. Chưa hết! Trả
tiền mà vào bên trong chỉ muốn dội ngược ra vì tình trạng bẩn thỉu ở mức độ
không thể chịu đựng được và chẳng có giấy vệ sinh gì ráo trọi. Muốn lại phải lội
ra trả tiền thêm. Tôi chỉ còn biết đứng đó mà nguyền rủa cái chế độ thích xây
tượng đài vĩ đại mà chẳng màng đến những nhu cầu “sống còn” nhứt của người dân
mà thôi! Tôi không biết cái chế độ này khuyến khích người dân thực hiện nếp sống
văn minh như thế nào mà rất nhiều lần tôi tận mắt chứng kiến cái cảnh cán bộ
hay đại gia béo phì lái những chiếc xe bóng lộn, đắt tiền dừng lại bên lề đường
và vô tư làm chuyện “cam dai bay” trước mặt người qua lại!
Còn chuyện khác nữa cũng khiến người ta phải
chửi rủa thậm tệ cái chế độ không biết xấu hổ này: đó là tình trạng thiếu thùng
rác công cộng! Đi đâu cũng thấy khu dân cư văn hóa, thôn văn hóa và những khẩu
hiệu đại loại như “toàn đảng, toàn dân...quyết tâm thực hiện nếp sống văn
minh”, nhưng có khi phải đi cả cây số may ra mới tìm được một thùng rác công cộng!
Có lần tôi thấy từ một chiếc xe bóng loáng, nguyên một gói rác được tung vào một
tiệm sửa xe dọc đường. Cái tiệm bị vứt rác vào lại thảy gói rác ra đường trúng
ai rán chịu. Cả nước quả là một cái thùng rác “vĩ đại”; ai muốn vứt rác chỗ nào
và lúc nào cũng được!
Trong cái ngày dừng chân tại Singapore,
tôi nhận thấy có rất nhiều du khách từ Việt nam. Dĩ nhiên đa số những người Việt
nam này là cán bộ hay những người thuộc giai cấp giàu mới “ăn nên làm ra” nhờ
“móc ngoặc” với chế độ. Tôi tin rằng cũng như tôi, những người Việt nam này
cũng có đủ khả năng quan sát như tôi. Cũng như tôi, những người Việt nam này
cũng phải nhận thấy rằng trong khắp quốc gia hải đảo Singapore, chưa có nơi nào dựng lên một tượng đài của ông
Lý Quang Diệu, vị cha già lập quốc và là
người đã đưa đất nước lên địa vị vĩ đại đúng nghĩa và phú cường như ngày nay.
Bù lại, nếu có một khẩu hiệu, thì khẩu hiệu đó chỉ kêu gọi người dân Singapore
biết sống kỷ luật. Trên một bảng quảng cáo của một ngân hàng, tôi không thấy
nói đến địa vị “thượng đế” của khách hàng như ở Việt nam, mà chỉ nhấn mạnh đến
hai chữ “kỷ luật”. Ngoài những kỳ tích vĩ đại, nhờ kỷ luật nên Singapore trở
thành một quốc gia không có rác, và là một trong những quốc gia sạch sẽ nhứt thế giới. Chính nhờ kỷ luật mà
người dân nước này cố gắng làm những nghĩa cử nhỏ và sống tử tế với mọi người.
Tôi nghĩ Việt nam cần nhiều nghĩa cử nhỏ
hơn là những tượng đài lớn. Tôi nhớ có lần ghé vào một tiệm sách Phương Nam trên
đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Sau khi tìm được một số sách và mang đến quầy thu
ngân để trả tiền, theo thói quen mà tôi đã học được không phải ở một nước Úc
văn minh mà là tại một nước Phi luật tân nghèo nàn, tôi tự động đứng xếp hàng.
Đứng mãi mà không bao giờ đến phiên mình được, bởi vì lúc nào cũng có những
khách hàng khác “vô tư” chen ngang để lên đứng phía trước mình. Thấy tôi cứ ngớ
ngẩn như người ngoài hành tinh, cô thu ngân nhìn tôi cười rồi nói tỉnh bơ: “Ở đây người ta không xếp hàng đâu”. Lạ
thật, tôi nghĩ, trong một đất nước được mệnh danh là “cộng hòa xếp hàng cả ngày”,
người dân lại chẳng biết thế nào là xếp
hàng để, nếu không vì bị bắt buộc, thì ít nhứt cũng để tỏ ra mình còn chút tự
trọng và tôn trọng người khác.
Phi luật tân là một nước Á châu
nghèo.Tham nhũng làm hoen ố hình ảnh của đất nước này. Nhưng ít ra, hình ảnh của
người dân đứng sắp hàng khi trả tiền trong một siêu thị hay khi chờ bước lên một
phương tiện di chuyển công cộng, cũng đủ để tôi nghĩ rằng người dân nước này
còn nghèo về của cải vật chất, nhưng họ không nghèo về những giá trị nhân bản
như tự trọng, tôn trọng, tử tế, quảng đại...
Tôi chợt nghĩ: cả triệu cái tượng đài “vĩ
đại” cũng không bằng một nghĩa cử nhỏ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét