25/05/18
Việc Hoa Kỳ khai trương tòa đại sứ tại Jerusalem và xem
Jerusalem như Thủ đô của Israel đã tạo ra một đợt sóng bạo động mới tại Gaza,
Palestine. Các lực lượng Israel đã tấn công vào đám đông những người biểu tình
tại Gaza khiến cho trên 60 người bị thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Hầu
như cả thế giới đều lên án hành động bắn giết bừa bãi của Israel. Tuy nhiên
“quan thày” của Israel là Hoa Kỳ vẫn cố tình để yên cho Israel ra tay tàn sát
người Palestine. Khi cho dời tòa đại sứ từ Tel Aviv về Cổ thành Jerusalem, Tổng
thống Trump muốn gởi đi một tín hiệu cho biết Chính phủ Hoa Kỳ hoàn toàn đứng về
phía Israel trong cuộc xung đột triền miên giữa Israel và Palestine. Với hành động
này, Tổng thống Trump đã được dân Israel tung hô như một anh hùng và ân nhân. Một
công trường gần tòa đại sứ mới của Hoa Kỳ đã được đặt tên lại là công trường
Trump để vinh danh ông. Một đội túc cầu của Jerusalem là “Beitar Jerusalem” đã
đệm thêm tên ông vào tên của đội thành ra “Beitar “Trump” Jerusalem”. Nhưng Tổng
thống Trump càng nở mặt thì người dân Palestine càng đau buồn.
Hoa Kỳ đã chọn ngày 14 tháng Năm vừa qua để khai trương
tòa đại sứ tại Jerusalem bởi vì đây là ngày kỷ niệm Israel tuyên bố lập quốc.
Thật vậy, ngày 14 tháng Năm vừa qua đánh dấu đúng 70 năm Israel tuyên bố độc lập.
Nhưng với người Palestine, đây là một ngày thảm họa. Nếu người Việt tỵ nạn xem
ngày 30 tháng Tư hàng năm là ngày “Quốc hận”, thì kể từ năm 1948, với người
Palestine, ngày 15 tháng Năm hàng năm là ngày Nakba, tức Ngày Thảm Họa. Trong
ngày này, người Palestine tưởng nhớ cảnh làng mạc của họ bị đốt phá, đất đai ruộng
vườn của họ bị chiếm đóng và hàng trăm ngàn người bị đuổi ra khỏi nhà. Kể từ đó
người Palestine đã trở thành người tỵ nạn ngay chính trên quê hương mà họ đã cư
ngụ từ hai ngàn năm qua.
Có lẽ phải đặt mình vào địa vị của người Palestine để hiểu
được tại sao Palestine đã trở thành một vùng đất của bạo động và xô xát triền
miên giữa người Palestine và người Israel. Hàng năm cứ đến Ngày Thảm họa Nakba, dù trong tuyệt vọng, người
Palestine vẫn cứ ào ạt tham gia cuộc tuần hành thường được mệnh danh là “Cuộc
Tuần hành Vĩ đại trở về quê hương”. Vẫn biết sẽ bị quân đội Israel đàn áp dã
man, hàng ngàn thanh niên Palestine vẫn hiên ngang lên đường đi đến những nơi
đã từng là quê cha đất tổ của họ.
Ngày 15 tháng Năm hàng năm quả là một Ngày Đại Họa đối với
người Palestine, bởi vì chỉ trong một sớm một chiều, nguyên một lãnh thổ trong
đó cả một dân tộc với một truyền thống lâu đời đã bị chiếm đóng, nguyên một xã
hội bị xóa sạch, cả một dân tộc biến thành người tỵ nạn ngay chính trên quê
hương của mình.
Lịch sử vẫn còn in đậm nét để người Palestine không thể
nào quên được Ngày Đại Họa của họ. Sau Đệ nhất Thế chiến, Hội Quốc Liên, tiền
thân của Liên Hiệp Quốc, đã phân chia Đế quốc Thổ thành nhiều lãnh thổ và trao
cho các cường quốc thực dân. Vùng đất ngày nay được xem là lãnh thổ của Israel
và những vùng đất của người Palestine bị chiếm đóng được trao cho Anh Quốc cai
trị. Anh Quốc là nước đã từng yểm trợ cho phong trào Sion của người Do Thái, tức
phong trào kêu gọi người Do Thái tản mác khắp nơi trở về Palestine. Anh Quốc được
trao cho sứ mệnh giúp tìm một nơi cho người Do Thái trở về được định cư. Nhưng
sứ mệnh này không hề nói đến việc thành lập một “quốc gia Israel”.
Khi trao phó cho Anh Quốc sứ mệnh bảo đảm cho người Do
Thái hồi cư có được “ngôi nhà” để ở, Hội Quốc Liên nhấn mạnh rằng cần phải mưu
cầu “phúc lợi và sự phát triển” cho những dân tộc đang sinh sống ở Palestine.
Vào năm 1922, khi Hội Quốc Liên giao phó sứ mệnh cho Anh Quốc thì tại
Palestine, có đến gần 90 phần trăm cư dân là người Á Rập theo Hồi giáo và Kitô
Giáo, trong khi đó người Do Thái chỉ chiếm khoảng 11 phần trăm dân số.
Sau Đệ nhị Thế chiến, cán cân dân số tại Palestine hoàn
toàn thay đổi: với làn sóng người Do Thái ồ ạt trở về, dân số Á Rập tại đây chỉ
còn chiếm khoảng 68 phần trăm và dân số Do Thái lại tăng lên đến 32 phần trăm,
trong số này có hai phần ba sinh tại ngoại quốc.
Ngày 29 tháng Mười Một năm 1947, chỉ gần một năm sau khi
ra đời, Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết kêu gọi chia đôi Palestine,
một nửa thuộc về người Á Rập và một nửa thuộc về người Do Thái. Nghị quyết cũng
cho phép thành lập quốc gia Israel.
Kể từ năm 1917, Palestine được đặt dưới quyền kiểm soát của
Anh Quốc là quốc gia ủng hộ việc thiết lập một quốc gia Israel tại Palestine.
Vì cuộc diệt chủng đối với người Do Thái do Đức quốc xã chủ xướng trong thời Đệ
nhị Thế chiến, bên cạnh Anh Quốc, hầu như tất cả các nước Tây Phương đều tỏ bày
thiện cảm với người Do Thái và khát vọng thành lập quốc gia của họ.
Theo kế hoạch của Liên Hiệp Quốc, Palestine được chia
thành ba vùng thuộc về người Do Thái, bốn vùng thuộc về người Á Rập. Riêng Cổ
thành Jerusalem được trao cho Liên Hiệp Quốc và từ đó trở thành một đô thị quốc
tế. Ngoại trừ các nước Á Rập, các nước Tây Phương cũng như Liên Xô đều tán
thành kế hoạch của Liên Hiệp Quốc.
Ngày 14 tháng Năm năm 1948, tức sáu tháng sau khi Liên Hiệp
Quốc thông qua nghị quyết phân chia lãnh thổ Palestine và cho phép Israel lập
quốc, nước này đã chính thức tuyên bố độc lập. Quân đội Anh rút ra khỏi
Palestine. Thế nhưng Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc không được tôn trọng. Israel
ngang nhiên lấn chiếm thêm lãnh thổ, hàng ngàn người Palestine phải rời bỏ quê
cha đất tổ của họ. Nại lý do bênh vực người Palestine, các nước Á Rập xung quanh
cũng đưa quân sang lấn chiếm những vùng đất đã được phân chia cho người Do
Thái. Năm 1967, chiến tranh giữa Israel và các nước Á Rập bùng nổ. Quân đội các
nước Á Rập bị Israel đè bẹp. Israel chiếm đóng thêm một số vùng khác của
Palestine và các nước Á Rập.
Cuộc xuất hành của người Palestine đã bắt đầu ngay từ
tháng Giêng năm 1948, tức trước cả khi Israel tuyên bố lập quốc. Đã có trên
100.000 người Palestine, phần lớn thuộc giai cấp thượng lưu và trung lưu, rời bỏ
các thành phố và thị trấn là những nơi thường diễn ra các cuộc xung đột bạo động.
Cho tới thời điểm đó, các cuộc trục xuất vẫn chưa xảy ra nhiều. Nhưng kể từ
tháng Tư năm 1948, các lực lượng Do Thái đã mở các chiến dịch tàn sát người
Palestine và cưỡng bách họ phải ra đi. Đẫm
máu nhất trong chiến dịch khủng bố của Israel là cuộc thảm sát tại làng Deir
Yassin ngày 9 tháng Tư năm 1948. Đã có khoảng 100 người Palestine bị tàn sát dã
man. Hành động khủng bố này đã gieo rắc kinh hoàng nơi người Palestine, khiến họ
không còn chọn lựa nào khác hơn là phải ra đi. Những người chọn lựa ở lại cũng
không được ở yên. Các dân quân Do Thái tìm đủ cách để bứng họ ra khỏi nhà cửa,
ruộng vườn của họ.
Kể từ đầu tháng Tư năm 1948, Israel đã tung ra chiến dịch
quân sự lấy tên là “Kế hoạch Dalet”. Một trong những mục tiêu của chiến dịch
này là tiến hành thanh lọc chủng tộc đối với hầu hết những người Á Rập đang
sinh sống trong những vùng nằm trong lãnh thổ của Israel. Trong quyển hồi ký của
ông, cựu Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin, người đã được trao tặng Giải Nobel Hòa
Bình năm 1994 và bị một người Do Thái cực đoạn ám sát năm 1995, có kể lại rằng
lúc còn là một sĩ quan trẻ, ông đã được thủ tướng tiên khởi của Israel là ông
David Ben Gurionra ra lệnh phải “tống cổ” 50.000 người Palestine ra khỏi hai
thành phố Lydda và Ramla.
Trong chiến dịch thanh lọc chủng tộc của Israel, có từ
700.000 đến 800.000 người Palestine hoặc phải ra đi hoặc bị trục xuất ra khỏi
các thành phố của họ. Số người còn ở lại trong vùng đất được xem là lãnh thổ của
Israel chiếm khoảng 18 phần trăm dân số của Israel. Nhưng trong 20 năm sau đó,
dù sống trên đất Israel, họ vẫn không được nhìn nhận như công dân Israel, mà phải
luôn sống dưới sự kiểm soát theo thiết quân luật. Xã hội mà người Palestine đã
tạo thành từ hằng bao thế kỷ qua, hầu như đã hoàn toàn bị xóa sạch. Các đô thị
và làng mạc của họ nếu không bị đổi tên thì cũng bị san bằng. Israel ban hành đủ
thứ luật để truất hữu đất đai của hàng loạt người Palestine. Nhưng đau buồn hơn
cả cho dân tộc Palestine là những ai đã bỏ ra đi hoặc bị trục xuất đều không được
phép hồi hương. Trong hai năm 1947 và 1948, hầu hết những người Palestine nào bỏ
nhà cửa để ra đi cũng đều hy vọng rằng hết chiến tranh và xung đột họ sẽ được
trở về nhà mình. Nhưng đó chỉ ảo vọng. Với Israel, càng có nhiều người
Palestine bỏ trốn hay bị trục xuất, lãnh thổ của họ càng được mở mang và quốc
gia của họ càng hùng mạnh.
Nakba hay Ngày Thảm Họa mà hàng năm người Palestine tưởng
niệm vào ngày 15 tháng Năm chính là sự sụp đổ và biến mất của nguyên một xã hội
đã có từ hàng ngàn năm qua, nhưng về chính trị, quân sự và văn hóa chưa được sẵn
sàng để đối đầu với thực dân, với phong trào trở về Sion của người Do Thái và
chiến tranh. Họ đã mất xã hội của họ và bị kết án phải sống cảnh lưu đày và vô
tổ quốc dưới sự cai trị của ngoại bang. Vương quốc Israel đã sụp đổ sau khi Hoàng
đế Titus của Đế quốc La Mã đem quân sang bình địa Jerusalem vào năm 72 sau Công
nguyên. Sau gần 2000 năm bỏ nước ra đi, người Do Thái đã có thể trở về và lập
quốc. Nhưng thân phận của người Palestine thì hoàn toàn khác hẳn. Họ bị lưu đày
ngay chính trên quê hương của mình và ngày trở về thì hoàn toàn mờ mịt.
Nakka hay Ngày Thảm Họa không chỉ xảy ra ngày 15 tháng
Năm năm 1948, mà vẫn tiếp tục diễn ra trong cuộc sống mỗi ngày của người
Palestine. Đây là cảnh tượng mà thế giới có thể chứng kiến hầu như mỗi ngày tại
Gaza, vùng đất của người Palestine đã bị Israel chiếm đóng từ năm 1967. Gaza chẳng
khác nào một thứ nhà tù “mở” trong đó gần 2 triệu người Palestine đang bị giam
giữ. Tình trạng bị giam giữ của gần 2 triệu người như thế dĩ nhiên chỉ có thể tạo
ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo triền miên mà ngay cả các viên chức an ninh của
Israel cũng đành phải gọi là một trái bom nổ chậm của sự khốn khổ của con người.
Đó là một trái bom trước sau gì cũng sẽ nổ tung.
Nakba hay Ngày Thảm Họa không còn là một tưởng niệm về một
biến cố lịch sử đối với hầu hết người Palestine, mà là một kinh nghiệm sống xảy
ra mỗi ngày. Kinh nghiệm ấy có thể sẽ còn thê thảm hơn sau khi Tổng thống Trump
cho dời tòa Đại sứ Mỹ về cổ thành Jerusalem.
(nguồn: https://www.theatlantic.com/international/archive/2018/05/the-meaning-of-nakba-israel-palestine-1948-gaza)