Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021

Hành hương về cội nguồn

 





Chu Văn
Có những địa danh mà nhiều người bảo rằng chỉ cần đến “xem” rồi chết cũng được. Thời trung học, không rõ từ đâu, tôi cũng nghe được câu: “Xem Ba Lê rồi chết” (voir Paris et mourir)! Thời trai trẻ, chỉ biết và chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, lúc nào tôi cũng mơ được một lần đặt chân đến nơi thường được mệnh danh là “kinh thành ánh sáng” đó. Mãi đến đầu thập niên 1980, giấc mơ của tôi mới thành hiện thực. Dòng sông Seine chảy lững lờ xuyên qua thành phố Ba Lê, nếu so với những dòng sông mà tôi đã từng chiêm ngắm ở Việt Nam của tôi, thật ra cũng chẳng bề thế và thơ mộng lắm. Chỉ có điều là khi học địa lý của mẫu quốc, vì đã mơ được một lần tận mắt ngắm nhìn dòng sông này, cho nên lần đầu tiên đi dọc theo bờ sông, phải nói là tôi đã ngây ngất. Ngây ngất chỉ vì mình đã “mục sở thị” điều mình đã mơ được thấy! Cùng với dòng sông Seine, còn có vô số những di tích lịch sử khác của Ba Lê mà tôi cũng cảm thấy “ngây ngất” khi đặt chân tới. Đặc biệt, với tôi là một tín đồ công giáo, nhà thờ Đức Bà Ba Lê (Notre Dame de Paris) là nơi đã ghi lại một dấu ấn rất mạnh. Thú vị nhứt có lẽ là giây phút tôi đứng dưới chân tháp nơi mà văn hào Victor Hugo (1802-1885) đã cho người gù Quasimodo kéo từng hồi chuông.
Cũng may, tôi đã “xem” Ba Lê mà vẫn còn sống nhăn để tiếp tục mơ được “xem” nhiều nơi khác trên thế giới. Năm 1985, bước chân lãng du đã đưa tôi đến La Mã. Học lõm đôi ba câu tiếng Ý, tôi lại nghe có người bảo “Xem La Mã rồi chết” (vedere Roma e dopo morire). Mà quả thật, với tôi La Mã là một trong những thành phố đáng “xem” nhứt. Ở đâu tôi cũng nhìn thấy những di tích lịch sử. Tôi đã bỏ ra nguyên một tháng mà vẫn chưa “xem” hết những di tích lịch sử ấy.









Ý còn có một thành phố khác mà người ta cũng bảo đến “xem” rồi chết cũng đáng. Đó là Napoli (Naples), thành phố lớn thứ ba của nước Ý. Tôi lại học thêm một câu tiếng Ý khác: “Hãy đến xem Napoli rồi hãy chết” (Vedi Napoli e poi muori). Sợ chết quá cho nên tôi không dám đến Napoli mà lại lên tận miền Bắc Ý để “xem” cho bằng được một thành phố nổi tiếng khác của Ý là Venezia (Venise). Tại đây, người ta cũng bảo: “xem Venezia rồi chết” (Vedere Venezia e morire). Thật đáng đồng tiền bát gạo để đến “xem” thành phố thời trung cổ này. Được xây dựng trên hơn một trăm hòn đảo nhỏ, cả thành phố là một công trình kiến trúc trên nước. Đi đâu cũng thấy nước. Vốn sinh ra và lớn lên bên cạnh hai con sông cho nên với tôi, “xem” Venezia cũng giống như trở về quê nhà.

Thế giới có vô số nơi để “xem” rồi chết cũng được. Nhưng tôi chưa được “xem” bao nhiêu thì tuổi đời không còn bao nhiêu nữa. Nay trước khi “về cội”, có một nơi ở Úc Đại Lợi mà tôi luôn nghĩ phải là nơi cuối cùng phải đến “xem” một lần  rồi chết cũng được. Đó là núi “Uluru” hay còn gọi là Ayers Rock (Hòn đá Ayers), nơi được xem là linh thánh nhứt của người thổ dân Úc. Được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) xem là một di sản của thế giới mà một công dân Úc như tôi không đến “xem” quả là một thiếu sót lớn.

Tuần qua, một dịp may hiếm có đã đến: tôi được cơ hội tháp tùng một người thân lái xe từ Sydney đi xuyên qua biên giới của 3 tiểu bang NSW, Victoria và Nam Úc để đến Alice Springs, một thành phố thuộc Lãnh Thổ Bắc Úc (Northern Territory). Trước khi đến Alice Springs, chúng tôi dừng lại Uluru. Thật ra, với riêng tôi, Uluru mới là điểm đến trong cuộc hành trình dài gần 4000 cây số từ bờ biển phía Đông đến tận trung tâm của nước Úc. Tại đây có cả một xa lộ dài 250 cây số và một phi trường chỉ dành riêng để phục vụ khách du lịch muốn đến Uluru. Giữa sa mạc mênh mông, dòng xe qua lại cũng chỉ chuyên chở toàn khách du lịch đến xem Uluru. Nhưng tôi không xem việc đến “xem” Uluru như một chuyến du lịch mà là một cuộc hành hương và hành hương về cội nguồn. Tôi không chỉ đến đây để “xem” hòn đá vĩ đại này đổi màu tùy theo ánh nắng mặt trời. Tôi cũng chẳng đến đây để chụp một tấm hình  lưu niệm. Tôi chiêm ngắm hòn đá linh thiêng này để trở về cội nguồn của người thổ dân, những người đã từng có mặt tại Úc Đại Lợi cả 40 ngàn năm. Và hiểu theo một ý nghĩa nào đó, họ cũng là những người có một nền “văn hóa” riêng đáng được tôn trọng.

Mới đây Đài truyền hình CNN của Mỹ đã sa thải một nhà bình luận vì cho rằng người da đỏ tại Hoa Kỳ chẳng có một nền “văn hóa” nào cả. Nhà bình luận này là ông Rick Santorum, một người đã từng tham gia vào cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc hồi năm 2016 dưới lá cờ của Đảng Cộng Hòa. Lý do ông Santorum bị Đài CNN chấm dứt hợp đồng là vì, lên tiếng trong một đại hội của những người bảo thủ, ông  khẳng định rằng trước khi người da trắng đến định cư tại Bắc Mỹ, người bản địa da đỏ chẳng có bất cứ nền văn hóa nào cả hay văn hóa của họ chẳng ăn nhập gì với văn hóa Mỹ (1).

Phần lớn người Úc da trắng cũng đã từng nghĩ như thế về người thổ dân. Trong cuốn phim tài liệu có tựa đề “Lịch sử châu lưu trong máu của tôi” (In my blood it runs) được thực hiện hồi năm 2019, một nhà làm phim người Úc là bà Maya Newell đã cho thấy một ý thức và một cái nhìn khác của chính người thổ dân. Cuốn phim được mở đầu với cảnh một giáo viên giơ cao cuốn truyện bằng tranh vẽ có tựa đề “The Australia Book” được soạn thảo hồi năm 1952 rồi đọc: “Tại Vịnh Botany, (thuyền trưởng) Cook cập bến lần đầu tiên tại một đất nước mới. Sau đó ông cho thuyền đi dọc theo bờ biển, đến đâu vẽ bản đồ đên đó...Tại một hòn đảo ở Mũi York, ông giương cao cờ Anh Quốc. Và ông tuyên bố toàn bộ vùng đất mới này thuộc về nước Anh”.

Một cậu bé thổ dân 10 tuổi tên là Dujuan đã giơ tay phản đối: “Bài học trên đây dành cho người da trắng chớ không phải người thổ dân. Người này (thuyền trưởng Cook) đến trên một chiếc thuyền và ông ta là người da trắng đầu tiên đặt chân đến Úc Đại Lợi. Người thổ dân đã bảo họ đi và tìm một vùng đất khác, bởi vì đây là đất của họ (người thổ dân). Nhưng họ (người da trắng) đã không nghe”(2)

Bài học mà cậu bé thổ dân Dujuan đã “dạy” cho người da trắng cũng chính là bài học mà cậu đã học được từ cha mẹ, ông bà và tổ tiên của họ. Đây là bài học mà nhà làm phim Newell cũng đã cố gắng tiếp thu khi đến sống với gia đình của Dujuan tại một vùng ngoại ô của Alice Springs trong nhiều tuần lễ để thực hiện cuốn phim tài liệu về cuộc sống của người thổ dân. Dân số của thành phố này có khoảng 30 ngàn người, trong số này có 20 phần trăm là người thổ dân. Hầu hết những người thổ dân tại Alice Springs đều phải sống trong các trung tâm tạm cư được thiết lập vào thập niên 1960, khi Chính phủ Úc cưỡng bách họ phải rời bỏ đất đai của họ. Người thổ dân tại Alice Springs sống chẳng khác nào người tỵ nạn ngay trên chính quê hương của họ, dưới sự theo dõi và giám sát rất chặt chẽ của cảnh sát. Tại đây, hầu hết các xe cảnh sát đều là những chiếc xe thùng dùng để săn lùng và chuyên chở những người phạm pháp. Trước cửa  một tiệm bán bia rượu bên cạnh trung tâm thương mại Woolworths, suốt ngày lúc nào tôi cũng thấy có 2 viên cảnh sát túc trục để xét giấy tờ tùy thân của khách hàng. Và dĩ nhiên, đa số khách hàng là người thổ dân. Không béo phì vì thức ăn nhanh (fast food), thì người thổ dân cũng bị nghiện ngập, bị tiểu đường loại hai hay mắc phải những chứng bệnh khác do những thứ đồ ăn, thức uống và vi khuẩn mà chính người da trắng đã mang tới.

“Ánh sáng văn minh” hay “văn hóa” của người da trắng đã bứng người thổ dân ra khỏi môi trường sống tự nhiên của họ và truyền cho họ vô số bệnh tật và tệ nạn xã hội chưa từng có trước khi người da trắng đặt chân đến Úc Đại Lợi. Theo thống kê, mặc dù con số thiếu niên thổ dân tuổi từ 10 đến 14 chỉ chiếm có 6 phần trăm số thiếu niên Úc trong độ tuổi này, nhưng 70 phần trăm thiếu niên phạm pháp hiện đang bị giam giữ trong những trung tâm cải huấn trên toàn quốc Úc lại là thiếu niên thổ dân. Riêng trong  Lãnh thổ Bắc  Úc, tình hình lại càng tồi tệ hơn: tính đến cuối tháng Ba năm nay, cứ 33 thiếu niên Úc bị giam giữ, có đến 31 em là người thổ dân.

Mục đích của hành hương là để sám hối. Hành hương đến Hòn đá Uluru thánh thiêng của người thổ dân Úc và nhìn cảnh họ lang thang suốt ngày trên các đường phố Alice Springs rồi liên tưởng đến nạn kỳ thị chủng tộc mà người Mỹ gốc Phi Châu hiện đã và đang gánh chịu từ ngày quốc gia được gọi là Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ được thành lập, tôi thấy không thể không làm một cuộc sám hối. Sám hối là bởi lẽ, trong suốt cuộc sống, ít hay nhiều tôi cũng đã từng nuôi dưỡng sự miệt thị và ngay cả  thù hận đối với những người không cùng màu da, văn hóa, ngôn ngữ hay tôn giáo với tôi. Ở Mỹ hiện nay  không chỉ có “thượng đẳng  da trắng” mà còn có cả “thượng đẳng da vàng” nữa. Tôi thường dễ quên mất một chân lý tối thượng trong cuộc sống. Đó là loài người liên đới chặt chẽ với nhau và nhứt là, bên kia màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo và trình độ phát triển, tất cả mọi người có mặt trên đất này đều giống nhau. Chỉ xét về bộ “gen”, dù thuộc chủng tộc nào, mọi người đều giống nhau đến 99 phần trăm. Còn xét về những nhu cầu cơ bản, cách suy nghĩ và cảm xúc, ở đâu và thời nào con người cũng giống nhau và chia sẻ chung một định mệnh. Năm 1963, sau khi bị bắt và ngược đãi vì cuộc tranh đấu bất bạo động cho các quyền dân sự tại Hoa Kỳ, cố mục sư Martin Luther King đã gởi đi từ  nhà tù một lá thư trong đó ông khẳng định rằng tất cả chúng ta đều là thành phần “của một mạng lưới liên đới và hỗ tương, liên kết với nhau trong cùng một định mệnh”. Cũng năm đó, không đầy một năm sau cuộc khủng hoảng tại Cuba qua đó Hoa Kỳ và Liên Xô suýt tiêu diệt nhau và cũng hủy diệt cả thế giới, cố Tổng thống John F. Kennedy đã gởi cho nhà lãnh đạo Liên Xô một lá thư trong đó ông nói: “Tất cả chúng ta cùng thở chung một không khí. Tất cả chúng ta đều trân quý tương lai của con cái chúng ta. Và tất cả chúng ta đều phải chết”(3).

Tổng thống tiên khởi của Sénégal, ông Leopold Sédar Senghor (1906-2001), có làm một bài thơ với tựa đề “Bài thơ gởi người anh em da trắng của tôi” (Poème à mon frère blanc) như sau:

Này người bạn da trắng thân mến của tôi ơi,

Khi sinh ra, tôi đã đen,

Khi lớn lên, tôi đã đen.

Khi ra dưới mặt trời, tôi vẫn đen,

Khi tôi bệnh, tôi vẫn đen,

Rồi khi tôi chết, tôi sẽ vẫn đen.

Còn anh, người da trắng,

Khi sinh ra, anh đỏ hồng,

Khi lớn lên, anh đã trắng,

Khi ra dưới mặt trời, anh đỏ au,

Khi gặp lạnh, anh tái xanh,

Khi sợ hãi, anh xanh lè,

Khi lâm bệnh, anh vàng lẹt,

Và khi chết, anh trở nên xám ngắt.

Như vậy giữa hai chúng ta,

Ai là người da màu? (bản dịch của tác giả Phạm Hồng Lam) (4).

(Xin được tiếp tục bài thơ để kết thúc bài viết này)

Và bạn ơi xin được hỏi:

Dù khác biệt màu da,

Chẳng lẽ, chúng ta không có cùng cội nguồn?

 

Chu Văn

 

Chú thích

 

1.            https://www.politico.com/news/magazine/2021/05/25/rick-santorum-cnn-donald-trump-490813

2.            https://www.bbc.com/news/stories-56544429

3.            https://www.psychologytoday.com/au/blog/missing-each-other/202105/why-do-we-hate

4.            https://dcvonline.net/2021/05/05/chinh-chung-ta-co-ky-thi-chung-toc-khong/

 

 

 

 

Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2021

Nhớ cụ Tản Đà

 


Chu Văn

Trong những năm gần đây và nhứt trong thời đại dịch Covid-19, tôi thường ngẫm nghĩ về câu nói của cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu(1889-1939): “Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn. Cho nên quân nó dễ làm quan”. Hai câu thơ này được trích từ bài thơ có tựa đề “Xem tiểu thuyết “Tờ chúc thư” cảm đề” của cụ được đăng trên An Nam tạp chí số 8/1927. Có lẽ đây là bài thơ đầu tiên trong văn chương chữ quốc ngữ trực diện chống tham nhũng ở Việt Nam vào thời đó. “Cụ Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng nề và dai dẳng của dân tộc. Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn quan tham lại nhũng”(1). Ngày nay, hơn 90 năm sau, với tôi 2 câu thơ của cụ Tản Đà vẫn có tính thời sự nóng bỏng. Thời nào và ở đâu cũng thế,  khi dân trí thấp thì người dân trở thành miếng mồi ngon của chủ nghĩa dân túy. Lãnh tụ dân túy là người khai thác triệt để sự ngu muội, cuồng tín và nhứt là những bản năng thấp hèn của người dân.

Ngay lúc này đây, khi nói đến chủ nghĩa dân túy, tôi không thể không nghĩ đến Thủ tướng Narendra Modi của Ấn Độ. Tôi chưa từng đặt chân đến Ấn Độ. Tôi chỉ thực sự biết được bộ mặt thật của xã hội Ấn Độ kể từ khi người nữ tu nhỏ bé người Albani tên là Teresa Bojaxhiu (1910-1997) rời bỏ tu viện nơi bà đang dạy học trong một trường trung học dành riêng cho con cái nhà giàu để đến cư ngụ trong một khu ổ chuột của Thành phố Calcutta và  chia sẻ cuộc sống với những người cùng khổ nhứt trong xã hội, đặc biệt các bệnh nhân đang hấp hối bên lề đường. Người nữ tu mà về sau thế giới thường gọi tên một cách thân thương là Mẹ Teresa Calcutta đã khởi sự công việc từ thiện từ thập niên 1950, nhưng mãi đến cuối thập niên 1960, nhờ cuốn phim tài liệu có tựa đề “Làm một điều tốt đẹp cho Thiên Chúa” (Something Beautiful for God) do một phóng viên người Anh là ông Malcolm Muggeridge thực hiện, thế giới mới biết đến tên tuổi của bà và dĩ nhiên cũng đã thấy được cuộc sống khốn khổ của người nghèo tại Ấn Độ và hố ngăn cách giàu nghèo tại nước này. Tôi vẫn nhớ mãi những người bạn Ấn Độ cùng làm việc chung với tôi trong một đài phát thanh công giáo tại Phi Luật Tân hồi thập niên 1980. Họ không tỏ ra mặn mà với hoạt động từ thiện của Mẹ Teresa mấy. Một số cho rằng người nữ tu này đã “bêu xấu” Ấn Độ khi cho thế giới thấy được cuộc sống của người nghèo trong những khu ổ chuột.

Nay, hơn 30 năm sau khi Mẹ Teresa đã ra đi, bộ mặt xã hội của quốc gia có dân số đông thứ nhì thế giới này lại được phơi bày một cách thê thảm hơn qua cơn đại dịch Covid-19. Mỗi ngày có đến trên dưới 400 ngàn người bị lây nhiễm và số tử vong có khi lên đến hơn 4000 người mỗi ngày. Hình ảnh được chiếu trên các phương tiện truyền thông mỗi ngày thật rùng rợn: hành lang các bệnh viện trở thành nhà xác, lửa từ các giàn hỏa thiêu tập thể bốc lên khắp nơi...

Đài Tiếng nói Quốc tế của Pháp RFI đã có lý khi nhận định: Thủ tướng “Narendra Modi đang trả giá cho sự kiêu căng của mình”. Đầu năm 2020, hãnh diện về sự thành công của mình trong cuộc chiến chống đại dịch, “Thủ tướng Modi liên tục nhấn mạnh đến “ngoại lệ Ấn Độ”: rất ít ca nhiễm và tử vong tính theo tỷ lệ dân số! Ông còn lạc quan đến độ, trước Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 26 tháng 9 năm 2020, ông đã thông báo “khả năng sản xuất vac-xin và khả năng cung ứng của Ấn Độ sẽ được huy động để giúp nhân loại chống cuộc khủng hoảng này”(2).

Huênh hoang, kiêu căng, tự mãn đến độ phủ nhận tính nghiêm trọng của đợt bùng phát thứ hai của đại dịch, Thủ tướng Modi cho tổ chức một cuộc hành hương khổng lồ nhân ngày lễ Kumbh Mela, quy tụ hàng triệu người Ấn giáo đổ xô đến tắm gội bên bờ sông Hằng. Đã thế ông còn tập trung dân chúng trong các cuộc vận động bầu cử tại một số tiểu bang. Và cho tới nay, bất chấp mối đe dọa chết người của Covid-19, bất chấp các khuyến cáo của các chuyên gia y tế, người được dân chúng tung hô như nhà “hiền triết” vẫn không chịu ban hành lệnh phong tỏa vì sợ ảnh hưởng đến kinh tế. Đây là một thái độ ngu xuẩn và thiếu trách nhiệm đến độ một nhà văn nổi tiếng của Ấn Độ là bà Arundhati Roy đã phải lên tiếng tố cáo: “Chúng ta đang chứng kiến tội ác chống lại nhân loại”(3).

Tại một quốc gia đông dân khác là Ba Tây, hiện cũng đang được cai trị bởi một lãnh tụ dân túy là ông Jair Bolsonaro, người ta cũng có thể nói đến “tội ác chống lại nhân loại” khi chứng kiến cảnh chết chóc do đại dịch Covid-19 gây ra chỉ vì cung cách đối phó tồi tệ và thiếu trách nhiệm của nhà lãnh đạo. Chỉ trong ngày 8 tháng Tư vừa qua, có đến 4250 người thiệt mạng vì Covid-19. Đây là con số tử vong trong một ngày cao nhứt trên trái đất! Hệ thống y tế của Ba Tây đã hoàn toàn sụp đổ. Ngoài một số yếu tố như bất bình đẳng xã hội, hệ thống y tế xuống cấp một cách trầm trọng, thái độ ngu xuẩn và thiếu trách nhiệm của một nhà lãnh đạo dân túy như ông Bolsonaro mới thực sự là nguyên nhân gây ra thảm họa cho đất nước. Khi đại dịch bùng nổ, ông bảo đây chỉ là một “cơn cúm nhẹ” không gây bất cứ nguy hiểm chết người nào. Dân chúng đã tin lời ông. Rồi khi đại dịch lây lan khắp nơi, ông ngăn cản bất cứ một sự ứng phó nào từ trung ương. Ông cũng xem thường và chống lại các nỗ lực của các thị trưởng và thống đốc tiểu bang nào tìm cách áp đặc việc phong tỏa hay đề ra những biện pháp phòng chống như đeo khẩu trang, giữ giãn cách xã hội. Chỉ trong một năm, ông đã thay đổi đến 4 bộ trưởng y tế, bởi vì vị nào cũng bị ông buộc phải sử dụng những loại thuốc không hề được kiểm nghiệm như Ivermecin và Hydroxychloroquine để chữa trị Covid-19 (4). Và mới đây, thay vì nhận trách nhiệm của mình trong việc đối phó tồi tệ trước đại dịch, ông lại đánh trống lảng bằng cách tung ra thuyết âm mưu theo đó chính Trung Cộng đã sáng chế ra siêu vi Corona để đầu độc thế giới và thủ lợi.(5)

Không phải tình cờ mà ông Bolsonaro buộc các bộ trưởng y tế của Ba Tây phải sử dụng thuốc trừ sốt rét Hydroxychloroquine để chữa trị Covid-19. Đây chính là một “toa thuốc” ngu xuẩn mà một người không có bất cứ một hiểu biết nào về y khoa như cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng đã từng đề ra cho dân chúng Mỹ dùng. Là nhà lãnh đạo của nền kinh tế lớn nhứt tại Châu Mỹ La Tinh, ông Bolsonaro theo đuôi ông Trump trên từng cây số. Chính vì thế mà ông được thế giới tặng cho danh hiệu “Trump của vùng nhiệt đới” (Tropical Trump).

Dưới thời ông Trump, Hoa Kỳ chiếm giải quán quân về con số người bị lây nhiễm và tử vong vì Covid-19. Bolsonaro chạy theo đuôi ông Trump cho nên thế giới không ngạc nhiên tại sao Ba Tây cũng có số người bị lây nhiễm và tử vong cao kỷ lục. Và dĩ nhiên, nhìn vào số người bị lây nhiễm và tử vong cao ngút ngàn hiện nay tại Ấn Độ, thật khó mà phủ nhận bóng ma của ông Trump trên dung mạo của Thủ tướng Modi và nhứt là trên vô số những giàn hỏa thiêu tập thể đang ngày đêm bốc lửa tại Ấn Độ.

Hoa Kỳ dưới thời Trump, Ba Tây dưới thời Bolsonaro và Ấn Độ dưới thời Modi là ba quốc gia dân chủ trong đó lãnh tụ là người được người dân bầu lên. Cụ Tản Đà chưa từng sống trong một chế độ dân chủ. Nhưng ít ra cụ cũng đã thấy được mối tương quan giữa dân trí và dân chủ. Dân trí thấp dẫn đến một nền dân chủ giả hiệu trong đó lãnh tụ dân túy hành xử nếu không như một nhà độc tài thì cũng theo đường lối chuyên chế.

Thời cụ Tản Đà, đa số dân chúng Việt Nam còn sống trong mê muội vì mù chữ. Ở những nước như Ấn Độ hay Ba Tây là nơi mà khoảng cách giữa giàu nghèo, giữa kiến thức và ngu muội vẫn còn là vực thẳm, sự kiện người dân “ngu” chạy theo các lãnh tụ dân túy là điều có thể hiểu được. Còn tại một đất nước “văn minh” như Hoa Kỳ mà vẫn còn có những lãnh tụ dân túy tiếp tục mê hoặc người dân bằng những chiếc bánh vẽ độc hại của họ là bởi vì người dân không “mù chữ” hay mù kiến thức. Họ “mù trong lương tâm”. Đây mới thực sự là cái “ngu quá lợn”!

Hoa Kỳ đã một thời mê ngủ trong cái ngu ấy và hiện vẫn muốn tiếp tục kéo dài  giấc ngủ ấy. “Kẻ mà ai cũng biết là ai đó” (The One every knows who he is), xét dưới bất cứ phương diện nào, từ trí tuệ, tâm lý, tính tình cho đến đạo đức, là  người có một nhân cách tồi tệ, mạt hạng trong đó dối trá đã trở thành phương châm sống và hành động. Những lời dối trá của con người này hẳn  phải độc hại khủng khiếp bởi vì các công ty mạng xã hội như Twitter, Facebook, Instagram...đã buộc lòng phải “bịt miệng” ông bao lâu ông còn tiếp tục phun ra những lời dối trá độc địa của mình. Đây quả là một hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả những ai còn muốn tự ru ngủ và tự sướng bằng những chiếc bánh vẽ của dối trá trong thứ “thiên đường mù” ấy của lãnh tụ.

Nghèo đói, ngu dốt, mù chữ không phải là một cái tội. Bịt mắt lương tâm để trở nên mù lòa trước sự dối trá: đó là một tội ác, bởi vì đó là hành động đồng lõa với cái Ác!

 

 

 

Chú thích

1.   https://toquoc.vn/tan-da-chong-tham-nhung-99105153.htm

2.   https://thongluan-rdp.org/chau-a/item/21429-covid-19-narendra-modi-dang-tr-gia-cho-s-kieu-cang-c-a-minh

3.   https://baotiengdan.com/2021/05/07/khi-nen-dan-chu-lon-nhat-the-gioi-thieu-oxy/

4.   https://theconversation.com/covid-19-in-brazil-how-jair-bolsonaro-created-a-calamity-159066

5.   https://www.thejakartapost.com/news/2021/05/06/brazils-bolsonaro-links-pandemic-to-germ-warfare-.htm