Cũng may, tôi đã “xem” Ba Lê mà vẫn còn sống nhăn để tiếp tục mơ được “xem” nhiều nơi khác trên thế giới. Năm 1985, bước chân lãng du đã đưa tôi đến La Mã. Học lõm đôi ba câu tiếng Ý, tôi lại nghe có người bảo “Xem La Mã rồi chết” (vedere Roma e dopo morire). Mà quả thật, với tôi La Mã là một trong những thành phố đáng “xem” nhứt. Ở đâu tôi cũng nhìn thấy những di tích lịch sử. Tôi đã bỏ ra nguyên một tháng mà vẫn chưa “xem” hết những di tích lịch sử ấy.
Ý còn có một thành phố khác mà người ta cũng bảo đến
“xem” rồi chết cũng đáng. Đó là Napoli (Naples), thành phố lớn thứ ba của nước
Ý. Tôi lại học thêm một câu tiếng Ý khác: “Hãy đến xem Napoli rồi hãy chết” (Vedi
Napoli e poi muori). Sợ chết quá cho nên tôi không dám đến Napoli mà lại lên tận
miền Bắc Ý để “xem” cho bằng được một thành phố nổi tiếng khác của Ý là Venezia
(Venise). Tại đây, người ta cũng bảo: “xem Venezia rồi chết” (Vedere Venezia e
morire). Thật đáng đồng tiền bát gạo để đến “xem” thành phố thời trung cổ này.
Được xây dựng trên hơn một trăm hòn đảo nhỏ, cả thành phố là một công trình kiến
trúc trên nước. Đi đâu cũng thấy nước. Vốn sinh ra và lớn lên bên cạnh hai con
sông cho nên với tôi, “xem” Venezia cũng giống như trở về quê nhà.
Thế giới có vô số nơi để “xem” rồi chết cũng được. Nhưng
tôi chưa được “xem” bao nhiêu thì tuổi đời không còn bao nhiêu nữa. Nay trước
khi “về cội”, có một nơi ở Úc Đại Lợi mà tôi luôn nghĩ phải là nơi cuối cùng phải
đến “xem” một lần rồi chết cũng được. Đó
là núi “Uluru” hay còn gọi là Ayers Rock (Hòn đá Ayers), nơi được xem là linh
thánh nhứt của người thổ dân Úc. Được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên Hiệp Quốc (UNESCO) xem là một di sản của thế giới mà một công dân Úc như
tôi không đến “xem” quả là một thiếu sót lớn.
Tuần qua, một dịp may hiếm có đã đến: tôi được cơ hội
tháp tùng một người thân lái xe từ Sydney đi xuyên qua biên giới của 3 tiểu
bang NSW, Victoria và Nam Úc để đến Alice Springs, một thành phố thuộc Lãnh Thổ
Bắc Úc (Northern Territory). Trước khi đến Alice Springs, chúng tôi dừng lại
Uluru. Thật ra, với riêng tôi, Uluru mới là điểm đến trong cuộc hành trình dài
gần 4000 cây số từ bờ biển phía Đông đến tận trung tâm của nước Úc. Tại đây có
cả một xa lộ dài 250 cây số và một phi trường chỉ dành riêng để phục vụ khách
du lịch muốn đến Uluru. Giữa sa mạc mênh mông, dòng xe qua lại cũng chỉ chuyên
chở toàn khách du lịch đến xem Uluru. Nhưng tôi không xem việc đến “xem” Uluru
như một chuyến du lịch mà là một cuộc hành hương và hành hương về cội nguồn. Tôi
không chỉ đến đây để “xem” hòn đá vĩ đại này đổi màu tùy theo ánh nắng mặt trời.
Tôi cũng chẳng đến đây để chụp một tấm hình
lưu niệm. Tôi chiêm ngắm hòn đá linh thiêng này để trở về cội nguồn của
người thổ dân, những người đã từng có mặt tại Úc Đại Lợi cả 40 ngàn năm. Và hiểu
theo một ý nghĩa nào đó, họ cũng là những người có một nền “văn hóa” riêng đáng
được tôn trọng.
Mới đây Đài truyền hình CNN của Mỹ đã sa thải một nhà
bình luận vì cho rằng người da đỏ tại Hoa Kỳ chẳng có một nền “văn hóa” nào cả.
Nhà bình luận này là ông Rick Santorum, một người đã từng tham gia vào cuộc chạy
đua vào Tòa Bạch Ốc hồi năm 2016 dưới lá cờ của Đảng Cộng Hòa. Lý do ông
Santorum bị Đài CNN chấm dứt hợp đồng là vì, lên tiếng trong một đại hội của những
người bảo thủ, ông khẳng định rằng trước
khi người da trắng đến định cư tại Bắc Mỹ, người bản địa da đỏ chẳng có bất cứ
nền văn hóa nào cả hay văn hóa của họ chẳng ăn nhập gì với văn hóa Mỹ (1).
Phần lớn người Úc da trắng cũng đã từng nghĩ như thế về
người thổ dân. Trong cuốn phim tài liệu có tựa đề “Lịch sử châu lưu trong máu của
tôi” (In my blood it runs) được thực hiện hồi năm 2019, một nhà làm phim người
Úc là bà Maya Newell đã cho thấy một ý thức và một cái nhìn khác của chính người
thổ dân. Cuốn phim được mở đầu với cảnh một giáo viên giơ cao cuốn truyện bằng
tranh vẽ có tựa đề “The Australia Book” được soạn thảo hồi năm 1952 rồi đọc: “Tại
Vịnh Botany, (thuyền trưởng) Cook cập bến lần đầu tiên tại một đất nước mới.
Sau đó ông cho thuyền đi dọc theo bờ biển, đến đâu vẽ bản đồ đên đó...Tại một
hòn đảo ở Mũi York, ông giương cao cờ Anh Quốc. Và ông tuyên bố toàn bộ vùng đất
mới này thuộc về nước Anh”.
Một cậu bé thổ dân 10 tuổi tên là Dujuan đã giơ tay phản
đối: “Bài học trên đây dành cho người da trắng chớ không phải người thổ dân.
Người này (thuyền trưởng Cook) đến trên một chiếc thuyền và ông ta là người da
trắng đầu tiên đặt chân đến Úc Đại Lợi. Người thổ dân đã bảo họ đi và tìm một
vùng đất khác, bởi vì đây là đất của họ (người thổ dân). Nhưng họ (người da trắng)
đã không nghe”(2)
Bài học mà cậu bé thổ dân Dujuan đã “dạy” cho người da trắng
cũng chính là bài học mà cậu đã học được từ cha mẹ, ông bà và tổ tiên của họ.
Đây là bài học mà nhà làm phim Newell cũng đã cố gắng tiếp thu khi đến sống với
gia đình của Dujuan tại một vùng ngoại ô của Alice Springs trong nhiều tuần lễ
để thực hiện cuốn phim tài liệu về cuộc sống của người thổ dân. Dân số của
thành phố này có khoảng 30 ngàn người, trong số này có 20 phần trăm là người thổ
dân. Hầu hết những người thổ dân tại Alice Springs đều phải sống trong các
trung tâm tạm cư được thiết lập vào thập niên 1960, khi Chính phủ Úc cưỡng bách
họ phải rời bỏ đất đai của họ. Người thổ dân tại Alice Springs sống chẳng khác
nào người tỵ nạn ngay trên chính quê hương của họ, dưới sự theo dõi và giám sát
rất chặt chẽ của cảnh sát. Tại đây, hầu hết các xe cảnh sát đều là những chiếc
xe thùng dùng để săn lùng và chuyên chở những người phạm pháp. Trước cửa một tiệm bán bia rượu bên cạnh trung tâm
thương mại Woolworths, suốt ngày lúc nào tôi cũng thấy có 2 viên cảnh sát túc
trục để xét giấy tờ tùy thân của khách hàng. Và dĩ nhiên, đa số khách hàng là
người thổ dân. Không béo phì vì thức ăn nhanh (fast food), thì người thổ dân cũng
bị nghiện ngập, bị tiểu đường loại hai hay mắc phải những chứng bệnh khác do những
thứ đồ ăn, thức uống và vi khuẩn mà chính người da trắng đã mang tới.
“Ánh sáng văn minh” hay “văn hóa” của người da trắng đã bứng
người thổ dân ra khỏi môi trường sống tự nhiên của họ và truyền cho họ vô số bệnh
tật và tệ nạn xã hội chưa từng có trước khi người da trắng đặt chân đến Úc Đại
Lợi. Theo thống kê, mặc dù con số thiếu niên thổ dân tuổi từ 10 đến 14 chỉ chiếm
có 6 phần trăm số thiếu niên Úc trong độ tuổi này, nhưng 70 phần trăm thiếu
niên phạm pháp hiện đang bị giam giữ trong những trung tâm cải huấn trên toàn
quốc Úc lại là thiếu niên thổ dân. Riêng trong
Lãnh thổ Bắc Úc, tình hình lại
càng tồi tệ hơn: tính đến cuối tháng Ba năm nay, cứ 33 thiếu niên Úc bị giam giữ,
có đến 31 em là người thổ dân.
Mục đích của hành hương là để sám hối. Hành hương đến Hòn
đá Uluru thánh thiêng của người thổ dân Úc và nhìn cảnh họ lang thang suốt ngày
trên các đường phố Alice Springs rồi liên tưởng đến nạn kỳ thị chủng tộc mà người
Mỹ gốc Phi Châu hiện đã và đang gánh chịu từ ngày quốc gia được gọi là Hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ được thành lập, tôi thấy không thể không làm một cuộc sám hối. Sám
hối là bởi lẽ, trong suốt cuộc sống, ít hay nhiều tôi cũng đã từng nuôi dưỡng sự
miệt thị và ngay cả thù hận đối với những
người không cùng màu da, văn hóa, ngôn ngữ hay tôn giáo với tôi. Ở Mỹ hiện nay không chỉ có “thượng đẳng da trắng” mà còn có cả “thượng đẳng da vàng” nữa.
Tôi thường dễ quên mất một chân lý tối thượng trong cuộc sống. Đó là loài người
liên đới chặt chẽ với nhau và nhứt là, bên kia màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn
giáo và trình độ phát triển, tất cả mọi người có mặt trên đất này đều giống
nhau. Chỉ xét về bộ “gen”, dù thuộc chủng tộc nào, mọi người đều giống nhau đến
99 phần trăm. Còn xét về những nhu cầu cơ bản, cách suy nghĩ và cảm xúc, ở đâu
và thời nào con người cũng giống nhau và chia sẻ chung một định mệnh. Năm 1963,
sau khi bị bắt và ngược đãi vì cuộc tranh đấu bất bạo động cho các quyền dân sự
tại Hoa Kỳ, cố mục sư Martin Luther King đã gởi đi từ nhà tù một lá thư trong đó ông khẳng định rằng
tất cả chúng ta đều là thành phần “của một mạng lưới liên đới và hỗ tương, liên
kết với nhau trong cùng một định mệnh”. Cũng năm đó, không đầy một năm sau cuộc
khủng hoảng tại Cuba qua đó Hoa Kỳ và Liên Xô suýt tiêu diệt nhau và cũng hủy
diệt cả thế giới, cố Tổng thống John F. Kennedy đã gởi cho nhà lãnh đạo Liên Xô
một lá thư trong đó ông nói: “Tất cả chúng ta cùng thở chung một không khí. Tất
cả chúng ta đều trân quý tương lai của con cái chúng ta. Và tất cả chúng ta đều
phải chết”(3).
Tổng thống tiên khởi của Sénégal, ông Leopold Sédar
Senghor (1906-2001), có làm một bài thơ với tựa đề “Bài thơ gởi người anh em da
trắng của tôi” (Poème à mon frère blanc) như sau:
Này người bạn da trắng thân mến của tôi ơi,
Khi sinh ra, tôi đã đen,
Khi lớn lên, tôi đã đen.
Khi ra dưới mặt trời, tôi vẫn đen,
Khi tôi bệnh, tôi vẫn đen,
Rồi khi tôi chết, tôi sẽ vẫn đen.
Còn anh, người da trắng,
Khi sinh ra, anh đỏ hồng,
Khi lớn lên, anh đã trắng,
Khi ra dưới mặt trời, anh đỏ au,
Khi gặp lạnh, anh tái xanh,
Khi sợ hãi, anh xanh lè,
Khi lâm bệnh, anh vàng lẹt,
Và khi chết, anh trở nên xám ngắt.
Như vậy giữa hai chúng ta,
Ai là người da màu? (bản dịch của tác giả Phạm Hồng Lam) (4).
(Xin được tiếp tục bài thơ để kết thúc bài viết này)
Và bạn ơi xin được hỏi:
Dù khác biệt màu da,
Chẳng lẽ, chúng ta không có cùng cội nguồn?
Chu Văn
Chú thích
1.
https://www.politico.com/news/magazine/2021/05/25/rick-santorum-cnn-donald-trump-490813
2.
https://www.bbc.com/news/stories-56544429
3.
https://www.psychologytoday.com/au/blog/missing-each-other/202105/why-do-we-hate
4.
https://dcvonline.net/2021/05/05/chinh-chung-ta-co-ky-thi-chung-toc-khong/