Chu Thập
12.07.11
Sinh ra ở đồng quê, tôi có một
tuổi thơ “thần tiên”. Thần tiên dĩ nhiên không có nghĩa là tôi “ước gì được đó”
như những ông trời con sinh ra trong nhung lụa hay những cậu ấm cô chiêu của những
gia đình danh giá, quyền thế. Tôi chỉ muốn nói tới vô số những thú vui mà tôi
có được và tôi tin chắc rằng một đứa bé lớn lên ở chốn phồn hoa đô hội có bỏ tiền
ra mua cũng chẳng có được. Thành ra, so sánh với mọi biến cố vui buồn trong mọi
giai đoạn trưởng thành, tôi thấy rằng đẹp nhứt trong cuộc đời tôi vẫn là những
kỷ niệm của tuổi thơ. Không biết đây có phải là lý do khiến tôi lúc nào cũng
say mê những hình ảnh của tuổi thơ không. Bất kỳ ở đâu, hễ thấy có một em bé
đang còn nằm trên chiếc xe đẩy mà đã biết cười thì bằng mọi giá tôi cũng phải
ngoái cổ lại nhìn cho được. Đi đâu cũng thế, cứ có cảnh sinh hoạt vui đùa của
các thiếu nhi thì tôi phải dừng lại như phải chào quốc kỳ vậy. Nhìn đứa bé nào,
tôi cũng cảm thấy như gặp được một người bạn. Chỉ tiếc là thời buổi này, ở những
nước văn minh như Úc đại lợi chẳng hạn, được tự do chia sẻ những niềm vui thần
tiên của trẻ em xem ra không còn là một điều “tự do” nữa. Tôi còn nhớ lần nọ,
tình cờ đi ngang qua một giáo xứ, thấy học sinh tiểu học đang nô đùa chạy nhảy
khi tham gia vào một trò chơi lạ mắt, tôi nấn ná đến gần sân trường để quan sát
và cũng để thả hồn về những kỷ niệm của tuổi thơ. Không rõ gương mặt của tôi
lúc đó có biểu lộ vẻ hắc ám của một tên “ấu dâm” chuyên rình rập trẻ thơ không,
một giáo viên đã sấn đến hạch hỏi lý lịch của tôi và yêu cầu tôi đi chỗ khác “chơi”.
Tôi buồn bã bỏ đi mà cũng chẳng cần thanh minh thanh nga gì hết. Thời buổi mà
nhìn đâu cũng thấy có những người làm chuyện đồi bại với trẻ thơ, người ta đâm
ra nghi ngờ mọi người và dĩ nhiên cũng làm vẩn đục mối quan hệ lẽ ra phải tốt đẹp
giữa người lớn và trẻ thơ. Là một người theo Đạo Chúa, tôi nghĩ nếu Chúa Giêsu
trở lại trần gian, bảo đem trẻ nhỏ đến cho Ngài ôm ấp yêu thương như từng được
kể trong Kinh Thánh, thì cái còng số 8 sẽ chẳng để cho đôi tay của Ngài được tự
do vỗ về chúng đâu.
Tuổi thơ hấp dẫn tôi, bởi vì
tuổi thơ luôn mang lại cho tôi nhiều cảm hứng. Tuổi thơ có thứ “minh triết” tự
nhiên mà người lớn không màng tới cho nên cứ phải đau khổ. Những mẩu đối thoại
đầy minh triết của trẻ thơ mà tôi mang theo suốt cuộc đời chính là những câu
nói dễ thương nhưng thật thâm sâu của Hoàng Tử Nhỏ, chuyện ngắn của nhà văn
Antoine de Saint-Exupéry. Cậu hoàng con, với gia tài vỏn vẹn là một cây hoa hồng
nhỏ trên một hành tinh cô độc, khi nhìn thấy một vườn hoa hồng mênh mông trên địa
cầu đã thốt lên: “Người ta trồng cả năm ngàn cây hoa hồng trong cùng một khu vườn,
nhưng lại không tìm thấy cái họ muốn tìm…Có
những điều không thể nhìn thấy bằng mắt nhưng phải bằng trái tim.” (Antoine
de St Exupéry, the Little Prince, chapt 25)
Trẻ thơ nhìn bằng trái tim chứ
không bằng lý trí.
Kinh Thánh Cựu ước có kể lại sự
thông minh sáng suốt tuyệt vời của một cậu bé tên là Đaniel đứng ra xét xử hai
ông lão già “dê xồm”. Hai lão già này được dân chúng kính trọng và được đặt làm
thẩm phán xét xử trong cộng đồng. Nhưng một hôm, do dục vọng đê hèn thúc đẩy,
hai ông toan cưỡng hiếp một thiếu phụ đang tắm trưa trong một ngôi vườn. Vì thất
bại trong mưu toan, hai lão già liền tri hô lên rằng người thiếu phụ bị hai ông
bắt quả tang đang có hành vi gian dâm với một người thanh niên. Theo luật Do
thái thời đó, đàn bà ngoại tình phải bị ném đá. Đang lúc mọi người đang chuẩn bị
xử tử người thiếu phụ thì bỗng trong đám đông xuất hiện một thiếu niên lên tiếng
yêu cầu cho xử lại vụ án. Người thiếu niên đã cho cách ly hai lão già gian ác và
thẩm vấn từng ông. Kết quả cho thấy lời khai của hai người hoàn toàn trái ngược
nhau. Bản án đã được đảo ngược, người thiếu phụ thoát chết và mọi người cảm phục
sự khôn ngoan của cậu bé.
Dĩ nhiên, sự “khôn ngoan” của
trẻ thơ ít được đề cao hơn sự trong trắng và hồn nhiên. Tuổi “thơ” là tuổi ngây
thơ. Ngây thơ cả trong những gì mà người lớn cho là thô tục nhứt. Tôi vẫn nhớ
mãi hình ảnh của một chú nhóc mà tôi đã gặp nhân một buổi đi câu cá gần một bãi
cắm trại ở bờ biển Patonga, Central Coast, New South Wales. Sau cơn mưa giông,
một cậu bé tóc vàng, với gương mặt lém lỉnh mà tôi nghĩ chưa tròn 3 tuổi, đã bước
ra khỏi căn lều và “vô tư” như người Hà nội, kéo quần xuống “giải thuỷ” trước mặt
mọi người xung quanh. Từ một lò nướng “barbecue” bên cạnh, có hai cậu bé thiếu
niên khoảng 10 tuổi, bất thần chứng kiến, đã được một bữa rửa mắt cho nên ôm bụng
cười nắc nẻ. Có lẽ cho đây là một nụ cười cợt nhả chăng, chú bé vừa làm “vệ
sinh” vừa hướng về hai cậu thiếu niên với một cái nhìn bằng nửa con mắt và
thách thức “Bộ vui lắm sao mà cười” (It’s
not so funny!). Tôi chỉ biết ôm bụng cười thầm. Nụ cười và ánh mắt tinh nghịch
nhưng dĩ nhiên cũng vô cùng ngây thơ của cậu bé được bộ nhớ của tôi ghi lại như
in. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ đến và vẫn thấy tức cười.
Trẻ thơ mang lại cho tôi những
nụ cười mà tôi tin rằng, cho dù sau này có bị dementia (lú lẫn), ký ức của tôi
vẫn còn giữ nguyên vẹn. Chẳng hạn như câu chuyện xảy ra hồi năm 1981, khi tôi
đang sống chui sống nhủi ở Sài gòn để tìm đường “cứu nước”, tôi vẫn nhớ như thể
hôm qua. Lúc đó, trong tình trạng vô gia cư, thỉnh thoảng tôi ghé qua nhà một
người bạn ở Hàng Xanh, Thị Nghè để tá túc vài hôm. Đây là một khu lao động theo
đúng nghĩa. Trẻ con đùa nghịch ngoài hẻm bất kể ngày đêm. Những tiếng chửi thề
của người lớn được trẻ con lập lại nguyên si, dù chẳng hiểu gì. Một buổi sáng nọ,
tôi đang ngồi đọc báo trước nhà, cô gái út của người bạn, chưa quá 3 tuổi, từ ngoài
hẻm hớt ha hớt hải chạy vào để tâu báo chuyện gì đó. Con bé chạy ùa vào nhà và
vấp phải chân tôi cho nên té sấp xuống đất. Vậy mà nó vẫn đứng dậy được và mếu
máo chửi tôi một câu nghe thật “dễ thương”: “Con c… đ.mẹ mày!”. Nếu câu này
thoát ra từ miệng của một người lớn, thì tôi e đã có chuyện lớn rồi. Nhưng từ
miệng của một “thiên thần” vừa bập bẹ biết nói, bạn không cười thì hẳn bạn
không còn là người bình thường rồi. Buổi
sáng hôm đó, dù cho bụng đang đói cồn cào, tôi vẫn thấy vui. Làm sao tôi có thể
quên được một câu chửi thề “duyên dáng” và “dễ thương” như thế. Tôi vẫn giữ liên lạc với gia đình người bạn kể
từ khi rời Việt nam. Thỉnh thoảng ghé thăm, tôi vẫn nhắc lại chuyện cũ, ai cũng
ôm bụng cười. Nhưng giờ đây, có lẽ tôi không dám gợi lại nữa, bởi vì cô bé “chửi
thề” của tôi không ngờ lại vắn số. Năm vừa qua, tôi đã mất cơ hội dự đám tang của
cháu. Tôi thương nhớ một thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng, thông minh và thành
công. Hơn nữa, hình ảnh của một trẻ thơ hồn nhiên mà mỗi khi nhớ đến không thể
không khiến tôi ôm bụng cười thầm.
Những kỷ niệm tuổi thơ của tôi và hình ảnh của cô thiên thần
nhỏ trên đây cũng như nụ cười lém lỉnh của cậu bé ở Patonga thường trở lại
không chỉ để làm bật lên một nụ cười giữa những nhọc nhằn hay bực bội của cuộc sống
hằng ngày. Tôi cũng xem đó như một nhắc nhở về sự giáo dục gia đình. Tuổi thơ đẹp
vì nó là một thứ giấy trắng tinh tuyền mà trên đó người lớn có thể tô vẽ đủ mọi
mầu sắc của cuộc đời. Tôi vẫn thường tự hỏi: “Nếu không được giáo dục, nhứt là
giáo dục gia đình, thì liệu tôi có phải là tôi như ngày nay không?”
Tôi suy nghĩ về điều đó khi đọc
bài viết có tựa đề “No sex, please” (xin đừng nói đến phái tính) đăng trên phụ
trương cuối tuần Good Weekend của báo The Sydney Morning Herald, số ra cuối tuần
qua. Bài báo nói đến lối “giáo dục” khác thường của một cặp vợ chồng trẻ người
Gia nã đại. Hai vợ chồng này có ba đứa con với những cái tên nghe không giống
ai, nghĩa là nghe qua, người ta không thể đoán được phái tính của chúng. Đặc biệt,
đứa nhỏ nhứt tên là “Storm” (giông bão). Mà đúng là giông bão thật, bởi vì cho
đến nay đứa bé 4 tháng tuổi này đã tạo ra cả một làn sóng thắc mắc về phái tính
của nó. Ngoại trừ hai cô mụ đỡ đẻ, hai thằng anh của nó và một người bạn thân,
hai vợ chồng này dứt khoát không cho ai biết nó là “thằng cu hay cái hĩm”. Ngày
xưa ở những làng xung quanh xóm giáo của tôi, người ta sợ “ông bà ông vải” về bắt,
cho nên con cái được đặt cho những tên thật xấu xí có hàm ẩn phái tính, nghe
lên cũng muốn té xỉu thôi. Cặp vợ chồng Gia nã đại này chẳng phải dị đoan gì cả.
Ai có đến chúc mừng và hỏi thăm “thơ nhi” là trai hay gái, thì họ đều làm
thinh. Trong một email, người vợ yêu cầu mọi người “hãy để cho đứa bé tự khám
phá ra nó muốn là ai”, nghĩa là tự chọn phái tính của mình. Hai vợ chồng trí thức
này xuất thân từ những gia đình có lối sống phóng khoáng. Người chồng đã từng
nghe bài hát quen thuộc “Free to be…You and me” (được tự do là…bạn và tôi) hồi
thập niên 1970 với nội dung cổ võ sự “trung tính”. Người vợ đã từng chứng kiến
cảnh anh trai của mình tô son trét phấn như các ca sĩ David Bowie, Mick Jagger
và xách “bóp đầm” như các bà. Tựu trung,
cặp vợ chồng này chủ trương cái lối giáo dục để cho con cái “tự học hỏi”, tự
khám phá, nhứt là khám phá mình là ai. Vì sợ con cái mình không được tự do chọn
lựa làm điều chúng muốn, sống như con người chúng muốn, làm những quyết định
như chúng muốn, cho nên họ chủ trương để cho con cái được tự do.
Tôi không biết rồi ra những đứa
bé lớn lên trong gia đình này sẽ như thế nào. Nói gì đến những đứa bé lớn lên
trong những gia đình chỉ có hai người cha hay chỉ có hai người mẹ. Sẽ đến một
lúc chúng sẽ tự đặt ra một câu hỏi không thể lẩn tránh được: “Tôi là ai?” Không tự trả lời được cho câu hỏi ấy quả là một
trong những nỗi khốn khổ lớn nhứt trong đời người.
Đầu tháng 7 vừa qua, nhạc sĩ
Hoàng ngọc Tuấn, đã có một đêm biểu diễn tại San Jose, tiểu bang California,
Hoa kỳ. Mở đầu buổi trình diễn nhạc thính phòng cho một số nhỏ thính giả, nhạc
sĩ tài ba này vừa đệm guitar vừa hát sáng tác đầu đời của anh có tựa đề “Sinh
nhựt của tôi”. Ca từ của bài hát được anh sáng tác năm 19 tuổi xoáy vào chủ đề “Tôi là ai?” Tâm sự của một người thanh niên hụt hẫng
trong những ngày đầu “cuộc cách mạng vô sản” chẳng ăn nhập gì với nỗi lòng của
những người lớn lên bị xâu xé giữa hai phái tính hoặc không tìm ra bản sắc của
mình, nhưng cũng nói lên được nỗi khắc khoải của mỗi người chúng ta. Có người
không tìm ra được cái tôi của mình. Có người, như nhà văn Nguyễn Khải trong nước,
vào cuối đời mới tìm lại đuợc “cái tôi đã mất” vì đã bán rẻ cho bác và đảng.
Riêng tôi, mỗi lần muốn tìm một
giải đáp cho câu hỏi “tôi là ai?” tôi không thể không nghĩ đến cha mẹ tôi. Cha
mẹ tôi đã trao ban cho tôi sự sống. Tôi không hưởng được gia tài nào cha mẹ tôi
để lại. Nhưng tôi tin chắc rằng tôi chỉ có thể là tôi ngày nay vì ít nhứt đã có
được những người thày dạy đầu tiên là cha mẹ tôi, những người đã dạy dỗ bảo ban
tôi những bài học nền tảng nhứt về tư cách con người, về cách cư xử ở đời, về
những giá trị đạo đức. Tôi vẫn cố gắng sống cho ra người tử tế. Nhưng cũng có
lúc tôi thấy mình chẳng ra gì.
Tôi nghĩ rằng nhân tính hay tư
cách con người vốn ngủ yên trong mỗi người. Hãy thử tượng tượng vừa lọt lòng mẹ,
tôi đã bị quăng vào rừng cho muông thú chăm sóc. Liệu tôi có sống như một con
người có suy nghĩ, biết cư xử không chứ đừng nói đến chuyện tôi muốn biết tôi
là ai? Cha mẹ sanh ra, nuôi dưỡng và dạy dỗ tôi để trở thành TÔI. Tôi không là
ai cả, tôi cũng không thể là ai khác và cũng không muốn bắt chước một thần tượng
nào cả. Rất đơn giản: tôi là Tôi!
Chợt nhớ lại một câu triết lý
của một đứa cháu gái. Muốn “dụ” nó tập ăn rau, người mẹ nói: “Con thử ăn bắp cải
đi, nó cũng tựa tựa xà lách.” Cô bé ăn thử rồi lắc đầu: “Không được đâu mẹ ơi,
dở lắm! con nghĩ bắp cải nó đang cố gắng biến
thành xà lách nhưng đâu có giống.”