Chu Thập
21/07/17
Nhà văn bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba đã ra đi. Xác ông
đã được hỏa thiêu. Trong cái nhìn duy vật của chế độ cộng sản Trung Quốc, ông
đã hoàn toàn trở về hư vô. Với những người
cộng sản Trung Quốc, ông là một thứ ung
nhọt đã được cắt bỏ, một gánh nặng đã được ném đi. Các nhà lãnh đạo Tây Phương
có lẽ cũng đã thở ra nhẹ nhõm.
Năm 2008, khi ông Lưu Hiểu Ba và những người bạn của ông
đã lấy tên “Linh Bát Hiến Chương” (Hiến chương 08) để đặt cho bản tuyên ngôn
trong đó họ đã kêu gọi tổ chức những cuộc bầu cử tự do và xây dựng chế độ dân
chủ, họ đã dựa vào một bản tuyên ngôn nổi tiếng là “Hiến chương 77” được một nhà văn bất đồng chính kiến Tiệp Khắc là ông
Vaclav Havel và các bạn của ông cho công bố hồi năm 1977. “Hiến chương 77” ra đời
vào giữa lúc đất nước của ông Vaclav Havel bị đặt dưới gọng kìm tàn bạo của
Liên Xô.
Cũng như ông Lưu Hiểu Ba, ông Vaclav Havel đã trải qua
nhiều năm tù tội. Thế nhưng, khi Tiệp Khắc được tự do, ông đã trở thành tổng thống.
Tù nhân nổi tiếng nhứt thế giới là ông Nelson Mandela cũng đã trải qua một cuộc
hành trình tương tự: sau 27 năm dài bị
giam giữ, ông đã trở thành tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi. Và cuối
cùng, ông đã ra đi với hào quang của một
vĩ nhân.
Nhà văn Lưu Hiểu Ba đã không được may mắn như hai vị tổng
thống trên đây. Không những ông đã không trở thành tổng thống của một Trung Quốc
tự do, mà còn phải ra đi khi chưa mãn hạn tù. Ông chỉ mới thi hành được 8 năm của
một bản án 11 năm tù vì tội gọi là “khích động lật đổ chính phủ”. Cũng như cố tổng
thống Nelson Mandela, nhà văn Lưu Hiểu Ba đã được trao tặng Giải Nobel Hòa
Bình. Nhưng ông đã không được phép đến Oslo để nhận giải thưởng ấy. Ngay cả khi
sức khỏe đã hoàn toàn suy sụp sau 8 năm bị tù đày, ông Lưu Hiểu Ba cũng không
được Trung Cộng cho phép đi ngoại quốc để chữa bệnh.
Giữa ông Lưu Hiểu Ba và rất nhiều nhà bất đồng chính kiến
nổi tiếng trên thế giới quả có quá nhiều khác biệt. Các chế độ dân chủ trên thế
giới, nhứt là các nước Tây Phương, đã luôn tỏ ra rất hăng say để lên tiếng bênh
vực và tranh đấu cho các ông Vaclav Havel, Nelson Mandela và nhà bất đồng chính
kiến Nga Andrei Sakharov. Tên tuổi của họ lúc nào cũng được nhắc đến trên sân
khấu chính trị của các nước Tây Phương. Không có một hội nghị thượng đỉnh hay bất
cứ một cuộc hội họp quốc tế nào mà người ta không vinh danh họ và tạo áp lực
lên các chế độ độc tài. Người ta sẵn sàng thương thuyết và ngay cả mặc cả để họ
được trả tự do hoặc ít ra cuộc sống tù tội của họ được cải thiện.
Nhưng với trường hợp của ông Lưu Hiểu Ba thì một thứ nhiệt
thành và hăng say như thế đã hầu như tắt lịm. Tại hội nghị thượng đỉnh khối 20
vừa qua ở Hamburg, Đức Quốc, tấm thân “hộ
pháp” của Chủ tịch Tập Cận Bình đã hầu như phủ trùm lên hội nghị. Hôm thứ Sáu
14 tháng Bảy vừa qua, nhân dịp được mời đến Pháp tham dự lễ quốc khánh của nước
này, tổng thống Mỹ Donald Trump và tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã dành cho
các ký giả một cuộc phỏng vấn chung. Một ký giả của Trung Cộng đã hỏi cảm nghĩ
của hai ông về Chủ tịch Tập Cận Bình. Tổng Pháp liền lên tiếng ca ngợi: Chủ tịch
Tập Cận Bình là “một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhứt của thế giới chúng
ta”. Về phần mình, ông Trump cũng ca một
bài tương tự: chủ tịch nhà nước Trung Cộng
là “một người bạn, một nhà lãnh đạo tài ba, một con người rất tốt”. Cái bóng của
Chủ tịch Tập Cận Bình quá uy nghi và đe dọa chăng, mà mặc dù nhà bất đồng chính
kiến Lưu Hiểu Ba, Khôi nguyên Giải Nobel Hòa Bình, chỉ mới qua đời vì tù tội
trong một chế độ độc tài ngày hôm trước, hai nhà lãnh đạo Tây Phương đã không
có lấy một tiếng để lên án cái chết rũ tù của ông. Thật là oái oăm khi những
nhà lãnh đạo lúc nào cũng lên tiếng kêu gọi bảo tồn nền văn minh Tây Phương, tức
văn minh của tự do và dân chủ, lại lên tiếng ca ngợi một đồ tể sát hại những
người tranh đấu cho những giá trị của Tây Phương! Ít ra ngày hôm sau, Tổng thống
Macron cũng đã gỡ gạc được phần nào khi
lên Twitter để “vinh danh ông Lưu Hiểu Ba, Khôi nguyên Nobel Hòa bình, nhà
tranh đấu vĩ đại cho tự do”. Còn Tổng thống Trump vẫn im thin thít. Không biết
tên tuổi của nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng này đã có lần nào xuất hiện
trong bộ nhớ của ông không?
Còn các nhà lãnh đạo của Úc Đại Lợi của tôi thì sao? Cho
tới nay, Thủ tướng Malcolm Turnbull vẫn giữ thinh lặng. Miệng ông thì lúc nào cũng
nói đến hai chữ “Tự Do”. Mới đây tại London, Anh Quốc, ông nói: “Để bảo vệ tự
do, chúng ta không thể không kìm hãm những kẻ thù của tự do”. Nghe hay quá,
nhưng Trung Cộng là kẻ thù số một của tự do thì thủ tướng của tôi lại chẳng dám
hở môi đụng tới. Tôi chỉ biết mượn lời của Ký giả Elaine Pearson của viện Lowy
Institute để thốt lên: “Úc Đại lợi thinh lặng về trường hợp ông Lưu Hiểu Ba là
một điều nhục nhã” (x. https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/australia-shameful-silence-liu-xiaobo).
Ít ra ở Tây Phương, một nước nhỏ như Na Uy đã không tỏ ra
quá sợ hãi trước sức mạnh kinh tế của Trung Cộng. Tính đến năm 2010, hầu như toàn bộ lượng cá hồi của Na Uy đều được
xuất cảng sang Trung Cộng. Trung Cộng quả là một đối tác thương mại quan trọng
của quốc gia Bắc Âu này. Tuy nhiên, không phải vì quyền lợi kinh tế mà Na Uy
làm ngơ trước hồ sơ vi phạm nhân quyền của Trung Cộng. Chính vì vậy mà năm
2010, Na Uy đã trao giải Nobel Hòa bình cho ông Lưu Hiểu Ba. Trong buổi lễ trao
tặng được tổ chức tại Thủ đô Oslo, Na Uy còn chọc giận Trung Cộng hơn nữa khi cố
tình để một chiếc ghế trống để lên án sự kiện Trung Cộng không cho phép ông Lưu
Hiểu Ba sang Na Uy nhận giải thưởng. Ngày nay, quan hệ giữa hai nước có thay đổi,
nhưng ít ra cũng có một lần, liên quan đến nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba,
Na Uy đã không tỏ ra quá khiếp đảm trước Trung Cộng.
Thật ra, đâu phải chỉ
có các nước Tây Phương ngày nay mới khiếp sợ Trung Cộng. Chính chế độ cộng sản Trung Quốc
mới thực sự là kẻ đang lo sợ. Có chế độ độc tài nào mà không lo sợ. Nếu không
lo sợ họ đã không tìm cách bịt miệng người dân và cai trị bằng dùi cui, báng
súng và nhà tù. Sự kiện ông Lưu Hiểu Ba và bao nhiêu nhà bất đồng chính kiến bị
giam tù và chết rũ tù là bằng chứng không những tố cáo một chế độ độc tài khát
máu mà cũng nói lên nỗi sợ hãi của họ. Họ sợ tiếng nói của tự do, dù chỉ là của
một con người không có lấy một tấc sắt trong tay như ông Lưu Hiểu Ba.
Cũng như người thanh niên đã từng đứng trước đoàn xe tăng
trong cuộc đàn áp những người biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4
tháng Sáu năm 1989, ông Lưu Hiểu Ba cũng đã một mình đứng lên đối đầu với chế độ.
Ông đã không sợ mất cuộc sống sung túc và an toàn. Đang là một giáo sư tại Hoa
Kỳ, ông đã bỏ quay về nước để tranh đấu cho tự do. Dừng chân ở Úc Đại Lợi và được
chính phủ nước này cho được tỵ nạn chính trị, ông cũng đã về nước một lần nữa để
đối đầu với chế độ độc tài. Sức mạnh duy nhứt giúp ông tỏ ra không sợ hãi trước
cường quyền chính là tình yêu thương. Trong bài diễn văn nhận giải Nobel Hòa
bình được nữ Tài tử Liv Ullmann đọc, ông đã trích một đoạn trong những lời tự
biện hộ của mình trước một tòa án của Trung Cộng hồi năm 2009 như sau: “Lời tuyên
bố sau cùng (của tôi): tôi không có kẻ thù”. Trong lời biện hộ này, ông đã khẳng
định rằng ông không hề thù oán những kẻ đã bỏ tù mình. Trong một tác phẩm có tựa
đề “Không hận không thù” ông viết rằng biến cố Thiên An Môn đã dạy cho ông bài
học về sức mạnh của tình thương; tình thương đã giúp ông biết được đâu là điều
quan trọng nhứt trong cuộc sống. Từ trong nhà tù, ông chia sẻ niềm xác tín và
cũng là sức mạnh của ông: “Thù hận làm hư hỏng cả lý trí lẫn cái tâm của con
người” và “nhìn người khác như kẻ thù là phá hoại đức khoan dung và tình nhân đạo
trong xã hội”.
Tình thương yêu là sức mạnh đã giúp ông không còn biết sợ
hãi trước bạo quyền. Nó cũng đã nâng đỡ ông trong suốt những năm tháng tranh đấu
cho quyền tự do ngôn luận và nhứt là 8 năm tù tội và bệnh hoạn.
Ông Lưu Hiểu Ba đã ra đi vào lòng đất. Nhưng chính quyền
cộng sản Trung Quốc vẫn còn sợ ông. Trên tất cả các trang mạng vốn luôn bị họ
kiểm soát, những người cộng sản Trung Quốc đã nhanh chóng kiểm duyệt tất cả những
bài viết hay bình luận nào liên quan đến ông. Ngay cả những lời chia buồn với
người vợ yêu quý của ông là bà Lưu Hà và gia đình của ông được bày tỏ trên mạng
lưới Internet cũng không thoát khỏi sự kiểm duyệt của họ. Nhưng ít nhứt cũng có
một thông điệp của một người vô danh gởi đi từ Trung Quốc đã lọt ra ngoài và đến
tay một ký giả ngoại quốc. Thông điệp đã được báo the Wall Street Journal cho phổ biến.
Nhắn gởi cho chế độ cộng sản Trung Quốc, thông điệp có nội dung nguyên văn như
sau: “Các ông muốn chôn vùi ông và chôn vùi trong bùn nhơ. Nhưng các ông đừng
quên rằng ông là một hạt giống”.
Nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba quả là một hạt giống.
Hạt giống có được dìm xuống đất mới nẩy mầm. Đây chính là hình ảnh đẹp và chính
xác nhứt để nói về cuộc sống và sức mạnh của ông.
Hình ảnh này gợi lại cho tôi lời khuyên của ai đó mà tôi
không nhớ tên: đừng quan tâm đến những thành quả bạn sẽ gặt hái mà hãy nghĩ đến
những hạt giống bạn gieo trồng.
Tôi thường nhìn lên sườn đồi phía sau nhà. Tôi gọi đây là
vùng “kinh tế mới của tôi”. Vốn là đất thuộc lâm viên quốc gia, nhưng mảnh đất
đã được tôi khai phá. Tôi trồng một số cây mà ít nhứt cũng phải 10 hay 15 năm nữa
may ra tôi mới nhìn thấy được thành quả của công lao “mồ hôi nước mắt” của
mình. Tôi tự an ủi, đời mình không thấy được hoa trái thì sau này cũng sẽ có
người hưởng được thôi, bởi vì tất cả những gì tôi đang thụ hưởng chẳng phải là
hoa quả mà những người đi trước tôi đã gieo trồng đó sao.
Nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba đã nằm xuống. Cuộc
tranh đấu bất bạo động và ôn hòa của ông và ngay cả cuộc sống và cái chết của ông, dưới mắt nhiều người, có lẽ chỉ là một
thứ phí phạm vô ích. Chế độ cộng sản Trung Quốc vẫn còn đó. Trung Cộng xem ra vẫn
ngày càng bành trướng và quyền lực kinh tế
của họ ngày càng làm cho thế giới nể phục và khiếp sợ. Nhưng nếu biết
nhìn ra hạt giống tình thương mà ông đã gieo trồng thì chắc chắn cái chết của
ông không phải là vô nghĩa hay vô ích. Bởi lẽ cuối cùng chỉ có tình thương mới
thực sự mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, làm cho cuộc sống trở nên đáng sống
cũng như có sức cải tạo xã hội.