Chu Thập
24/08/18
Tôi “yêu” Úc Đại Lợi, quê hương thứ hai của tôi. Đi đâu rồi
nhìn lại, tôi vẫn thấy “quê hương” của mình là nhứt. Ăn cây nào rào cây nấy. Có
thể tôi chủ quan. Nhưng mới đây, khi tạp chí Economist của Anh công bố danh
sách của 10 thành phố đáng sống (livable) nhứt trên thế giới, tôi thấy mình có
đủ lý do để tự hào về đất nước mình đã chọn làm quê hương thứ hai. Trong 10
thành phố đáng sống nhứt này, Melbourne đứng hàng thứ 2, Sydney đứng hàng thứ 5
và Adelaide đứng hàng thứ 10. Với dân số vừa mới bước vào ngưỡng cửa 25 triệu
dân cách đây một tháng, Úc không phải là một nước lớn. Còn nếu lấy tổng sản lượng
quốc gia ra để “đấu” với những người khổng lồ như Hoa Kỳ hay Trung Cộng, Úc chỉ
là một cậu bé tí hon. Vậy mà đất nước này năm nào cũng có nhiều thành phố lọt
vào danh sách 10 thành phố đáng sống nhứt. Công dân Úc không có lý do gì để
không tự hào về đất nước của mình.
Nhìn sang người anh em của Úc trong khối Thịnh vượng
chung là Gia Nã Đại, tôi tin chắc là người dân ở đó cũng phải có cùng một niềm
tự hào như tôi. Trong danh sách 10 thành phố đáng sống nhứt theo sự bầu chọn của
tạp chí Economist, Gia Nã Đại cũng có tới 3 thành phố: Calgary được xếp tới
hàng thứ 4, Vancouver hàng thứ 6 và Toronto hàng thứ 7.
Tôi đã đến Toronto. Còn Vancouver, tôi chỉ mới nghe người
Việt tỵ nạn ở Gia Nã Đại quảng cáo. Riêng Calgary, dạo tháng Bảy vừa qua, tôi
đã “mục sở thị”. Trong gần một tuần lễ ở chơi với ông bạn nối khố từ lúc thiếu
thời, tôi đã được đưa đi thăm thú một
vòng thành phố và những vùng ngoại ô của thành phố này. Nếu không có mùa đông
hơi khắc nghiệt đối với lớp da thiếu mỡ của một người Á Châu như tôi thì quả thật
Calgary là một thành phố đáng sống nhứt theo những tiêu chuẩn được tạp chí
Economist chỉ ra như văn hóa, hạ tầng cơ sở, bảo hiểm y tế, tội ác và xung đột,
giáo dục...Riêng ông bạn của tôi dường như muốn cho tôi thấy một khía cạnh khác
của Calgary. Một hôm ông chở vợ chồng tôi đi dọc theo một con sông bao quanh
thành phố. Khi đến gần trung tâm thành phố, ông chỉ vào một tòa nhà khá khang
trang. Khang trang đến độ một số người Việt tỵ nạn từ xa đến tưởng đó là một
khách sạn, định vô mướn phòng. Nhưng bạn tôi giải thích: đó là một trung tâm
dành cho người vô gia cư (homeless). Thành phố Calgary là một nơi đáng sống là
phải bởi vì ngay cả người vô gia cư cũng có nơi ăn chốn ở như mọi người!
Không hiểu sao hình ảnh của “khách sạn” dành cho người vô
gia cư ở thành phố Calgary cứ đeo đuổi tôi suốt cả tuần khi tôi đến thăm gia
đình cô em gái ở Orange County, Tiểu bang California, tiểu bang giàu nhứt nước Mỹ với nền kinh tế đứng
hàng thứ 5 trên thế giới. Trong tiểu bang này, thành phố Los Angeles phải được
xem là biểu tượng của sự thịnh vượng và danh tiếng về mọi mặt của nước Mỹ.
Trong gần một tuần lễ ở đó, tôi đã đi và đến phi trường Los 4, 5 lần. Và lần nào,
từ thủ đô người Việt tỵ nạn tại Orange County cũng phải mất khoảng một tiếng đồng
hồ để đi trên xa lộ xuyên bang 405 chạy ngang qua phi trường. Hệ thống xa lộ là
biểu tượng của sự giàu có của Hoa Kỳ. Một tên nhà quê đến từ “Miệt Dưới” như
tôi chỉ biết há mồm để trầm trồ ngưỡng mộ sự vĩ đại của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Mỗi bên xa lộ có đến 5,7 “len”, “len” nào cũng “nêm” cứng xe cộ.
Có lẽ không quen với cảnh giàu sang và náo nhiệt của quốc
gia vĩ đại và giàu có nhứt hành tinh này chăng, có lúc tôi thấy ngộp thở. Ngộp
thở vì nhìn hai bên xa lộ chỉ thấy bức tường chắn tiếng động mà tuyệt nhiên
không có bất cứ màu xanh nào của cây rừng hay công viên. Ngộp thở vì nhìn đâu
cũng chỉ thấy nhà máy, cơ xưởng và trung tâm thương mại. Nhưng ngộp thở nhứt với
tôi có lẽ là bầu trời xám xịt bao phủ 24/24 thành phố Los và ngay cả những vùng
phụ cận. Có lúc tôi tưởng như mình đang ở giữa thành phố Bắc Kinh của Trung Cộng,
tuy chưa đến nỗi phải đeo khẩu trang mỗi khi ra đường. Ngay biển và những bờ biển
thật đẹp như Huntington beach, Seal beach, Newport beach... cũng được phủ xuống
một lớp “khói mù” (smog) dày đặc. Màu xanh da trời hay màu xanh của biển ở Los
có lẽ chỉ còn có trong tranh!
Cộng với nạn cháy rừng và sức nóng của mùa hè, tôi không
biết người ta còn có đủ khí để thở trong lớp “sương mù” ấy không. Nhớ lại
“khách sạn” của người vô gia cư tại Calgary, tôi thấy tội nghiệp cho những người
vô gia cư ở Los. Tôi không biết những người vô gia cư ở thành phố Los, thành phố
được mệnh danh là “thủ đô” của người vô gia cư, có thở nổi dưới bầu trời dày đặc
khói mù và oi bức ấy không.
Để giúp vợ chồng tôi cảm được thế nào là cuộc sống vô gia
cư ở Lo Angeles, một linh mục Việt Nam làm việc cho người vô gia cư đã đưa
chúng tôi đi một vòng “thủ đô” của họ. Phải mất nửa tiếng đồng hồ lái xe mới có
được một cái nhìn khái quát về “thủ đô” này. Trên vỉa hè của rất nhiều dãy phố
ngay trong trung tâm thành phố Los, người vô gia cư dựng lên những túp lều bằng
ni lông, cát-tông hay giấy bạt vừa đủ không gian cho một người để nằm. Ngồi
trong xe có máy lạnh, nhưng tôi vẫn cảm được cái nóng đốt cháy da thịt của mùa
hè ở Los. Vậy mà theo vị linh mục này cho biết: dân số vô gia cư ở thành phố
Los theo con số chính thức là khoảng 50 ngàn người. Nhưng ông nói rằng trong thực
tế con số ấy có thể cao hơn. Phần lớn là người Mỹ gốc Phi Châu.
Nhớ lại hình ảnh của “khách sạn” của người vô gia cư tại
Calgary bên Gia Nã Đại, rồi nhìn xuống những túp lều của những “Chú Tom” (như
ai đó đã gọi người Mỹ gốc Phi Châu một cách khinh miệt!) tôi thấy xót xa. Những
trang sử đen tối của chế độ nô lệ vào thời kỳ lập quốc của Hoa Kỳ lại hiện về
trong tâm trí tôi. Có thể tách lìa sự phồn vinh và phú cường của đệ nhứt siêu
cường thế giới khỏi lịch sử ấy không? Hoa kỳ có thể trở thành một cường quốc
không nếu không có hàng hàng lớp lớp đời này qua đời khác những người nô lệ da
đen bị bóc lột tất cả từ khi chào đời đến lúc lìa đời không? Và khi sự giàu có
lại san sát với cảnh nghèo thì liệu đó có phải là sự phồn vinh đích thực không
và một sự giàu sang phú quý như thế có thể khỏa lấp được lương tâm của mình để
thực sự sống hạnh phúc và bình an không?
Có lẽ tôi thường suy nghĩ theo lối “triết lý cùn” của một
người nghèo nên luôn cho rằng sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc
đích thực cho con người. Nghĩ xa hơn tôi cũng cho rằng sức mạnh kinh tế và nhứt
là quân sự của một quốc gia cũng không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho người
dân và nhứt là biện minh cho sự chính danh của một chế độ.
Tôi có ý nghĩ ấy khi đọc một bài phóng sự mới đây của Đài
BBC về cuộc sống của người dân Nam Hàn. Bài phóng sự mở đầu với hình ảnh của một
người đàn ông đang ngồi câu cá dọc theo một bờ đá. Những đứa con của ông đang
chơi đùa bên cạnh. Phóng viên của Đài BBC viết rằng người đàn ông này đang quảng
cáo không công cho một chiến dịch của Chính phủ Nam Hàn có tên là “Worabel”, nghĩa là “cân bằng việc làm và cuộc sống”.
Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế gọi tắt là OECD,
Nam Hàn là một trong những quốc gia có số người phải làm việc nhiều giờ nhứt
trên thế giới: trên 20 phần trăm công nhân Nam Hàn phải làm hơn 50 giờ một tuần
và phần lớn không nghỉ hơn phân nửa số ngày nghỉ mà họ có quyền lấy.
Dĩ nhiên, làm việc quá tải như thế cho nên nhiều người bị
căng thẳng và rơi vào trầm cảm khiến cho tỷ lệ tự tử ở Nam Hàn lên rất cao.
Ngoài ra, làm việc quá nhiều cũng khiến cho sinh xuất của Nam Hàn ngày càng giảm.
Người phụ nữ sợ sinh đẻ bởi vì họ sợ vác thêm gánh nặng của việc nuôi dạy con
cái.
Sự phát triển kinh tế của Nam Hàn quả là một phép lạ tại
Á Châu. Ngày nay, các sản phẩm của Nam Hàn như xe hơi, thiết bị gia dụng, điện
thoại tinh khôn... tràn ngập khắp thế giới. Ngay cả kỹ nghệ điện ảnh của Nam
Hàn cũng xâm chiếm thị trường thế giới. Thu nhập trung bình tính theo đầu người của người dân Nam Hàn
trong năm nay đã lên đến 30.000 Mỹ kim. Từ xe BMW đến phòng vệ sinh được điều
khiển từ xa (remote control)...bất cứ thứ xa xỉ nào trên thế giới, họ cũng đều
có cả. Tuy nhiên kể từ năm 2013, nếu so sánh với các nước khác trong Tổ chức Hợp
tác Phát triển Kinh tế, sự hài lòng với cuộc sống của người dân Nam Hàn lại ở
dưới mức trung bình.
Chính vì vậy mà trong chiến dịch vận động bầu cử, Tổng thống
Moon Jae-in đã tung ra khẩu hiệu “Người dân là trước hết” (People first). Ông
muốn thấy người dân phải được hạnh phúc chớ không chỉ biết làm quần quật suốt
ngày để làm giàu. Trong thông điệp đầu năm 2018 vừa qua, ông nói rằng “Tự nó
con số (30.000 Mỹ kim) không quan trọng. Điều quan trọng là phải bảo đảm cho
người dân hưởng được cuộc sống tốt đẹp hợp với số thu nhập tính theo đầu người
là 30.000 Mỹ kim ấy”. Tựu trung, với khẩu hiệu “Người dân là trước tiên” của
ông, đương kim tổng thống Nam Hàn mong muốn cho người dân được thực sự hạnh
phúc.
Thật ra, Nam Hàn không phải là quốc gia duy nhứt hay đầu
tiên quan tâm đến hạnh phúc của người dân. Kể từ năm 2012, Anh Quốc cũng đã làm
một bài tính từ bảo hiểm y tế, công ăn việc làm và giáo dục để đề ra những
chính sách khả dĩ giúp người dân được sống hạnh phúc. Riêng các Tiểu vương quốc
Á Rập Thống Nhứt mới đây đã lập thêm một bộ mới lấy tên là “Bộ Hạnh phúc và
Phúc lợi” với tham vọng trở thành một trong những nước hạnh phúc nhứt trên trái
đất vào năm 2021.
Nhưng nói đến hạnh phúc của người dân, không thể không
nói đến bước đi tiên phong của Vương quốc Bhutan, quốc gia có đa số dân theo Phật
Giáo nằm ở phía Đông Hy Mã Lạp Sơn. Kể từ năm 2008, quốc gia này tuyên bố đặt Tổng
sản lượng Hạnh phúc lên trên phát triển kinh tế. Năm 2016, Tổng thống Moon đã
viếng thăm Bhutan. Cảm hứng từ những gì đã quan sát được ở Bhutan chăng, ông
cũng muốn đưa hạnh phúc của người dân lên trước hết, xem hạnh phúc của họ như
điều kiện tiên quyết của phát triển kinh tế.
Dân giàu nước mạnh. Có người dân và chính phủ nào không
mong muốn điều đó. Nhưng thế nào là giàu mạnh? Và có phải giàu mạnh bằng mọi
cách, mọi giá hay không? Thời xa xưa các đế quốc và các nước thực dân đã làm
giàu bằng tài nguyên cướp bóc từ các nước
thuộc địa và nhứt là trên xương máu của người nô lệ. Ở Thế kỷ 20, trước khi xảy
ra Đệ nhị Thế chiến, Đức quốc xã của Hitler và nước Ý dưới thời Benito
Mussolini là 2 nước có nền kinh tế mạnh nhứt nhì Âu Châu. Hai nhà độc tài này
đã dùng kinh tế để biện minh cho những chính sách vô nhân đạo của họ. Gần đây
hơn, với chủ trương “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được
chuột”, Trung Cộng đã làm giàu và làm giàu bằng mọi cách, kể cả phá hủy môi trường
và nhứt là chà đạp và tước đoạt tất cả mọi quyền căn bản của người dân. Nói đâu
cho xa, kể từ lúc mở cửa, kinh tế Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể.
Nhưng liệu sự phát triển kinh tế ấy có biện minh được cho chế độ độc tài đảng
trị, bán nước của đảng cộng sản không?
Kinh tế không phải là tất cả. Sự sống còn và sức mạnh
đích thực của một quốc gia còn phải dựa vào những giá trị khác như nhân bản, đạo
đức mà kinh tế và sự giàu có không thể mang lại được. Một nguyên thủ quốc gia
đích thực không chỉ là một nhà kinh tế giỏi, mà còn phải là người đại diện và xiển
dương những giá trị nền tảng làm nên sức mạnh và sự vĩ đại đích thực của một quốc
gia. Thời nào người dân cũng đòi hỏi nơi nhà lãnh đạo tài ba và đức độ. Nói một
cách đơn giản, hơn ai hết, nguyên thủ quốc gia phải là một người có tư cách.
Xét cho cùng, như “nhà đạo” của tôi dạy: con người không
chỉ sống bằng cơm bánh! Làm giàu một cách bất lương là điều đáng phỉ nhổ. Nhưng
giàu có mà không san sẻ, sớt chia cho người nghèo cũng là một cách sống không
phải đạo. Một cuộc sống có ý nghĩa, đáng sống còn phải được xây dựng trên những
giá trị nhân bản và đạo đức nữa.