24/11/17
Từ trên máy bay nhìn xuống, người phụ nữ Eritrea cảm thấy
nôn nóng vì sắp sửa được nhìn lại quê hương. Ở tuổi trung niên, người phụ nữ
này đã từng trốn khỏi xứ sở và xin tỵ nạn tại Đức. Một phóng viên của báo Der
Spiegel muốn hỏi tên, những chị đã từ chối, bởi vì tại Eritra, bỏ nước ra đi một
cách bất hợp pháp có thể bị giam tù.
Từ Đức, người phụ nữ Eritrea trở về quê hương như một
khách du lịch. Tại phi trường Asmara, mọi thủ tục về hải quan đều đã diễn ra một
cách tốt đẹp. Chị mang về cho gia đình rất nhiều quà cáp và chỉ định ở lại quê
hương 2 tuần lễ.
Theo các số liệu của Chính phủ Eritrea, chỉ trong năm vừa
qua thôi, đã có 116.000 người tỵ nạn Eritrea về thăm quê hương. Theo giải thích
của một viên chức Phần Lan từng làm việc với người tỵ nạn Eritrea, Chính phủ
Ertrea không làm khó dễ những người tỵ nạn nào muốn trở về thăm quê hương, bởi
vì xuyên qua một loại thuế mà chính phủ nước này gọi là “thuế phát triển”, người
tỵ nạn mang về một số ngoại tệ đáng kể cho quốc gia nghèo đói này. Dù vậy, không
phải vì đã đóng thuế thì đương nhiên được những tên côn đồ “tự phát” của chế độ
để yên cho đâu. Nhiều trường hợp đã xảy ra cho thấy nhiều người hồi hương biến
mất không để lại một vết tích nào hoặc cuối cùng nằm bóc lịch trong các nhà tù
bí mật.
Trong một bản phúc trình gần đây nhất, Hội đồng Nhân quyền
Liên Hiệp Quốc đã tố cáo Chính phủ Ertrea về những vụ bách hại công dân, tra tấn,
hãm hiếp, hành quyết và thủ tiêu. Các chuyên gia pháp lý của Liên Hiệp Quốc
cũng lên án chính sách quân dịch và lao dịch như một “tội ác về nô lệ hóa”. Đây
chính là lý do đã khiến hàng ngàn người Eritrea trốn khỏi đất nước. Thật vậy chỉ
trong vài tháng đã có đến 5000 thanh niên thiếu nữ bỏ trốn.
Cuối năm 2015, Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc cho biết con
số tỵ nạn từ Eritrea lên đến gần nửa triệu, tức 10 phần trăm của tổng số dân chỉ
có khoảng 5 triệu người. Trong số những người tỵ nạn Eritrea nộp đơn xin tỵ nạn
tại Đức trong năm vừa qua, 92 phần trăm đã
được chính phủ nước này đón nhận, trong khi đó trong năm 2017, chỉ có 81
phần trăm người Syria được Đức nhận. Nhưng đây là nhóm tỵ nạn được Đức đón nhận
nhiều nhất.
Khi nộp đơn xin tỵ nạn, người Eritrea thường nại đến những
vi phạm nhân quyền. Eritrea đã từng bị Liên Hiệp Quốc lên án vì những thành
tích vi phạm nhân quyền. Bản phúc trình của Liên Hiệp Quốc khẳng định rằng
Eritrea sử dụng những “biện pháp độc tài” để khủng bố người dân.
Thật ra, nhìn thoáng qua, chẳng có dấu hiệu nào cho thấy
người dân Eritrea, nhất là tại Thủ đô Asmara đang bị nhà nước khủng bố. Trong
các khu buôn bán, người dân vẫn tấp nập đi lại; các thiếu nữ mặc quần jeans vẫn
đi lại trên các đường phố; đàn ông thì vẫn ngồi tán gẫu trong các tiệm cà phê.
Cuộc sống ở Eritrea xem ra vẫn bình thường như tại các nước tự do khác. Tuy
nhiên, du khách có thể bị đánh lạc hướng vì cái vẻ bình thường ấy, bởi vì sự khủng
bố và bách hại tại Eritrea thường là vô hình.
Thật vậy, Chính phủ Eritrea vạn bất đắc dĩ mới để cho các
ký giả ngoại quốc đến thăm viếng đất nước của họ, bởi vì hầu như ký giả nào sau
một vòng thăm viếng cũng đều mô tả bộ mặt thật của một quốc gia mà họ so sánh với
một chế độ bưng bít như một Bắc Hàn ở Á Châu. Tổ chức “Các phóng viên không
biên giới” cảnh cáo rằng Eritrea là một trong những nước nguy hiểm nhất cho các
ký giả. Nhưng một phóng viên của báo Der Spiegel nói rằng trong suốt một tuần lễ
có mặt tại Eritrea, ông không nhận thấy có bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ mình bị
theo dõi trên từng cây số.
Lý do là Bộ trưởng Thông tin Eritrea, ông Yemane
Gebremeskel, đã đón tiếp các phóng viên của báo Der Spiegel tại một cao ốc giữa
thủ đô. Tòa nhà này là trụ sở của ba cơ quan truyền thông của nhà nước là đài
truyền hình, đài phát thanh và một hãng thông tấn. Đây là hãng thông tấn duy nhất
của Eritrea. Vì mọi cơ sở truyền thông đều nằm trong tay nhà nước cho nên tại
Eritrea không hề có tự do báo chí và tự do ngôn luận.
Nhưng Bộ trưởng Thông tin
nói rằng tại Eritrea vẫn có tự do
báo chí và tự do ngôn luận. Ông giải thích: mọi người dân nước ông đều có thể
“lang thang” trên mạng lưới thông tin toàn cầu; họ có thể theo dõi các đài ngoại
quốc như BBC, CNN, Al-Jazeera. Dĩ nhiên, người dân Eritrea hoàn toàn có tự do để
sử dụng Internet, nhưng tốc độ của Internet tại nước này lại chậm như rùa.
Chính phủ hạ giảm tối đa tốc độ như thế là để dễ bề kiểm soát và theo dõi.
Ngoài ra, vì tốc độ Internet quá chậm cho nên người dân cũng đành bỏ cuộc thôi!
Ở tuổi 65, ông Gebremeskel là một người ốm o còm cõi.
Cũng như hầu hết các thành viên khác trong nội các chính phủ, vốn xuất thân là
du kích quân trong cuộc chiến giành độc lập, Bộ trưởng Thông tin Eritrea không
thích mặc “đồ lớn” khi đi làm.
Biện hộ cho quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận tại đất
nước ông và lên án thái độ thiếu khách quan của các phóng viên nước ngoài, Bộ
trưởng Thông tin Eritrea đan cử trường hợp của bà Sheila Keetharuth. Là một luật
sư người Mauritius, bà này đã từng góp phần soạn thảo bảo phúc trình của Hội đồng
Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Nhưng ông Gebremeskel mỉa mai rằng bà Sheila toàn bịa
chuyện về Eritrea. Ông nói rằng bà này chưa hề đặt chân đến đất nước của ông.
Ông đã có lý khi bảo rằng bà Sheila chưa bao giờ đặt chân đến Eritrea, bởi vì
chính phủ của ông có cho phép bà đến Eritrea bao giờ đâu!
Người đứng đầu cơ quan tuyên truyền của Chính phủ Eritrea
đã có sẵn giải đáp cho mọi câu hỏi. Kể lể với các phóng viên của báo Der
Spiegel, ông dùng ngón tay để tính nhẩm các con số thống kê. Theo thống kê từ
bên ngoài, mỗi tháng có ít nhất 5000 người Eritrea bỏ trốn ra nước ngoài. Nhưng
Bộ trưởng Thông tin Eritrea nói rằng đó chỉ là một con số tưởng tượng. Theo
ông, sự thật chỉ có vài trăm người thôi. Còn tại sao người dân lại bỏ nước ra
đi? Ông trả lời: “Vì Liên Âu nhận bất cứ người tầm trú nào”. Ông giải thích rằng
nhiều người chỉ muốn đến các nước Âu Châu để làm việc hay học hành mà thôi.
Theo ông, di dân nằm trong bản chất con người và lúc nào cũng còn đó. Về thành
tích vi phạm nhân quyền của Eritrea ư? Bộ trưởng Thông tin nước này biện minh rằng
ở đâu mà chẳng có vi phạm nhân quyền. Ông cho rằng bản phúc trình phóng đại của
bà Sheila là một phỉ báng đối với Eritrea. Còn về chuyện cưỡng bách quân dịch
hay lao dịch, ông nói rằng có thể đó là gánh nặng đối với một số người, nhưng
Ertrea cần có những biện pháp như thế để phát triển và bảo vệ xứ sở.
Theo ông Gebremeskel, Ertrea cần phải trang bị để chống lại
nước láng giềng hùng mạnh là Ethiopia, Ethiopia đã nhiều lần tấn công Eritrea. Theo
người đứng đầu guồng máy tuyên truyền của Eritrea, bất cứ ai am hiểu lịch sử của
nước ông đều hiểu rằng cần phải có cưỡng bách quân dịch. Lịch sử mà ông
Gebremeskel nói đến là lịch sử của 30 năm chiến tranh giải phóng chống lại
Ethiopia. Cuộc chiến này chỉ kết thúc vào năm 1991. Hai năm sau, Eritrea tuyên
bố độc lập.
Kể từ đó, Tổng thống Isaias Afwerki muốn xây dựng Eritrea
thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa. Vì muốn đất nước của ông tự túc tự cường
cho nên ông khước từ mọi viện trợ của nước ngoài. Nhưng không có sự giúp đỡ của
ngoại quốc, Eritrea đã phải quằn quại trong một cuộc chiến mới với Ethiopia kéo
dài từ năm 1998 đến năm 2000. Cuộc chiến này đã đánh đổ hoàn toàn mọi viễn kiến
của Tổng thống Afwerki. Chỉ vì tranh nhau một mảnh đất khô cằn mà cuộc chiến giữa
hai nước đã làm cho khoảng 100.000 thiệt mạng và hủy hoại nền kinh tế của một
quốc gia còn non trẻ.
Năm 2009, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã áp đặt một cuộc
cấm vận vũ khí chống lại Chính phủ
Eritrea. Liên Hiệp Quốc tố cáo nước này bí mật yểm trợ cho các dân quân Hồi
giáo cực đoan tại Somalia.
Hiện nay Eritrea vẫn còn phải đối đầu với một mối đe dọa
thật sự từ Ethiopia. So với Eritrea, Ethopia có một quân đội hùng mạnh hơn nhiều
và lúc nào cũng muốn tìm đường ra Biển Đỏ. Chính phủ Eritrea nại đến mối đe dọa
này để biện minh cho việc đặt 200.000 binh sĩ nam lẫn nữ luôn trong tình trạng
báo động cũng như quân sự hóa xã hội. Cứ được 18 tuổi, tất cả mọi thanh niên
thiếu nữ Eritrea đều phải đi quân dịch hoặc bị cưỡng bách phải phục vụ trong một số ngành khác như xây
dựng, nông nghiệp và giáo dục. Dân chúng Eritrea luôn được nhắc nhở về mối nguy
hiểm của kẻ thù truyền kiếp là Ethiopia. Các hình ảnh về cuộc chiến tranh giải
phóng được treo đầy trong các hành lang của Bộ Thông tin và trong các công thư,
người ta thấy vô số những cảnh đề cao các anh hùng dân tộc trong cuộc chiến.
Trên một ngọn đồi nhìn xuống thủ đô, dân chúng lúc nào cũng phải ngước nhìn lên
một đài kỷ niệm được dựng lên từ những mảnh vụn của các chiếc xe tăng, súng ống,
đạn dược được sản xuất tại Liên Xô và được Eritrea tịch thu được từ quân đội
Ethiopia.
Toàn bộ xã hội Eritrea đều bị quân sự hóa. Đây chính là
lý do tại sao dân chúng tìm cách bỏ nước ra đi. Một người đàn ông 66 tuổi, được
phóng viên của báo Der Spiegel tiếp xúc, đã xin được dấu tên như bất cứ người
dân nào muốn nói chuyện với người nước ngoài. Người đàn ông này nói: “Bạn không
thể ăn nói tự do ở đây. Nếu bạn ăn nói tự do, bạn sẽ “biến mất” tức khắc”. Ý
ông nói đến việc bị bắt cóc hay thủ tiêu rất thường xảy ra tại Eritrea.
Dân chúng Eritrea không bao giờ quên được điều đã xảy ra
cho một nhóm người gọi là G-15. Đây là một nhóm gồm những cựu chiến binh xuất sắc
và là đảng viên. Sau cuộc chiến biên giới với Ethiopia, họ đã kêu gọi những cuộc
cải tổ dân chủ. Cho đến nay, Eritrea vẫn chưa có Hiến Pháp. Lần cuối cùng dân
chúng được đi đến phòng phiếu là năm 1993. Đó là lần duy nhất người dân tham
gia cuộc trưng cầu dân ý về độc lập. Nhóm G-15 đã bị bịt miệng. Một số đã trốn
thoát được, nhưng năm 2001, 11 người trong nhóm đã bị giam tù để chia sẻ số phận
của hàng ngàn người chống chế độ. Nhưng cho tới nay, người ta vẫn chưa biết rõ
con số những người bị chế độ giam tù là bao nhiêu.
Tổng thống Afwerki nay đã 71 tuổi. Ông vẫn là lãnh tụ của
đảng duy nhất đang cầm quyền tại Ertrea. Và cũng giống như bất cứ nhà độc tài
nào, ông luôn sống trong tình trạng lo sợ, không biết sẽ bị các thuộc hạ lật đổ
lúc nào. Dù vậy, ông chỉ hiểu được một thứ ngôn ngữ là ngôn ngữ của bạo lực.
Trong những năm chiến đấu, ông đã từng chặt đầu bất cứ người nào bất đồng ý kiến
với ông. Có người cho rằng Tổng thống Afwerki hiện đang có một hội chứng mà người
ta gọi là “Hội chứng Gorbachev”, tức lo sợ rằng cơ cấu quyền lực của mình sẽ sụp
đổ nếu chấp nhận cải tổ.
Eritrea vẫn tiếp tục là một trong những nước nghèo nhất
thế giới, bị cô lập với các nước láng giềng và không còn nhận được viện trợ từ
các đồng minh cũ. Ngoài Trung Cộng, Cuba và một vài nước Á Rập cũng như một số
công ty Gia Nã Đại và Úc Đại Lợi hiện đang khai thác một số khoáng sản, Eritrea
không có quan hệ tốt đẹp nào với các nước khác.
Eritrea đúng là một Bắc Hàn tại Phi Châu. Còn nếu lạc
quan hơn một chút thì bảo rằng Eritrea là một Cuba tại Phi Châu cũng chẳng sai.
(theo: http://www.spiegel.de/international/world/eritrea-a-visit-to-africa-s-north-korea)