Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

Tứ Hải Giai Huynh Đệ


                                                                                   Chu Thập
12/4/11
Đọc tin bác sĩ Philipp Roesler được bầu làm chủ tịch đảng Dân chủ Tự do và trở thành phó thủ tướng Đức, theo thói quen “thấy người sang bắt quàng làm họ”, tôi cũng cảm thấy hãnh diện được làm người Việt nam. Tên họ của ông bác sĩ 38 tuổi này là Đức rặc, ông lại cao lớn chẳng khác nào một người Tây phương, nhưng nhìn kỹ ông vẫn là một người da vàng, tóc đen, mũi tẹt như tôi, cho nên tôi lại càng thấy “vẻ vang dân Việt” hơn.
Tuy nhiên, trong niềm vui chung của dân tộc này, nếu phải nghĩ đến những người cần được vinh danh, thì tư tưởng của tôi lại hướng về những người đã góp phần làm nên sự nghiệp của ông Philipp Roesler. Dĩ nhiên, phải có tài trí, sự phấn đấu và đức độ cá nhân cao, ông mới vươn lên một địa vị như thế trong guồng máy chính trị và xã hội Đức hiện nay, nhứt là ở vào một lứa tuổi tương đối trẻ như ông. Nhưng một đứa trẻ mồ côi như ông chỉ có thể thành đạt được nhờ những tấm lòng vàng mà thôi. Tôi nghĩ đến trước tiên những nữ tu trông coi cô nhi viện, chiếc nôi của tình người, nơi ông được đón tiếp và dưỡng dục trong những ngày đầu đời cách đây 38 năm. Không có bàn tay ôm ấp và chăm sóc của các nữ tu thì liệu đứa bé bị bỏ rơi ngày nào có được một địa vị như hiện nay không?
Người thứ hai tôi nghĩ đến nhiều hơn là ông bà Roesler, người đã nhận ông làm con nuôi và đưa về Đức để dưỡng dục như một người con ruột thịt trong gia đình khi ông chỉ mới 9 tháng tuổi. Chắc chắn chỉ có tình thương gia đình và một môi trường giáo dục gia đình thuận tiện mới có thể bảo đảm cho phó thủ tướng tương lai của Đức một nền giáo dục đầy đủ về mọi mặt như thế.
Dĩ nhiên, bất hạnh có thể trở thành một động lực giúp con người vươn lên. Trong một bài viết có tựa đề “Những người mồ côi lãnh đạo thế giới”, được đăng tải trong một tạp chí y khoa có uy tín tại Hoa kỳ, một tác giả nọ đã tìm hiểu về cuộc đời của 300 nhà lãnh đạo đã từng có ảnh hưởng lớn lao đối với lịch sử thế giới. Sau khi tìm kiếm sợi chỉ xuyên suốt của các cuộc đời ngoại hạng này, tác giả khám phá ra rằng tất cả những nhà lãnh đạo này đã từng lớn lên như những đứa trẻ mồ côi hay đã từng có một tuổi thơ bất hạnh. Trong danh sách của 300 nhà lãnh đạo lừng danh này người ta đọc được những tên tuổi như đại đế Alexandre, Julius Caesar, Robespierre, George Washington, hoàng đế Napoléon, nữ hoàng Victoria, nữ thủ tướng Do thái Golda Meir và ngay cả một số bạo chúa như Hitler, Lenin, Stalin và Fidel Castro (trích trong Philip Yancey, Where is God When it Hurts). Nhưng đã là những cuộc đời ngoại hạng, thì những trường hợp “vươn lên” từ bất hạnh như những lãnh tụ trên đây không phải là số phận chung của mọi đứa trẻ mồ côi. Nếu không được đón nhận, nuôi nấng, dạy dỗ và nhứt là yêu thương thì phần lớn những đứa trẻ mồ côi đều có một cuộc đời bất hạnh, buồn thảm.
Ở đâu và thời đại nào cũng có trẻ em mồ côi. Ngày nay, tại các nước văn minh, các cô nhi viện được thay thế bằng những hình thức “ gia đình”  khác nhân bản hơn. Chẳng hạn tại Úc đại lợi, từ thập niên 1970, các cô nhi viện trên toàn quốc đều bị đóng cửa. Thay vào đó, các gia đình được khuyến khích đón nhận các trẻ em mồ côi hay trẻ em từ những gia đình đổ vỡ hoặc không có khả năng nuôi dạy con cái. Hiện nay trên toàn quốc có khoảng 36.000 trẻ em được chăm sóc trong các gia đình bảo trợ, cha mẹ nuôi hay sống với người thân. Con số này đã gia tăng gấp đôi trong vòng một thập niên. Tổng cộng trên toàn nước Úc hiện có 8050 gia đình nhận nuôi trẻ em mồ côi hay từ những gia đình không có khả năng nuôi dạy con cái. Một nửa các gia đình bảo dưỡng này đều đã có hai hay nhiều đứa con. Có khoảng năm phần trăm đã có trên 5 đứa con.
Phụ trương “Good Weekend” của báo The Sydney Morning Herald, trong số ra cuối tuần 9 tháng 4 vừa qua, có ghi lại một bài phóng sự về một gia đình bảo dưỡng tại một vùng quê thuộc tiểu bang New South Wales. Với tựa đề “Niềm hy vọng đang sống ở đây”, bài báo kể lại các sinh họat của gia đình ông bà Terry và Val Brown. Ở tuổi trên 70, với con cái đã khôn lớn và ra riêng, ông bà Brown hiện đang nuôi dạy 4 nguời con gái nuôi: một em đã chuẩn bị buớc vào tuổi truởng thành, hai em ở tuổi vị thành niên và một em chín tuổi. Tất cả đều đuợc gởi học trong một truờng công giáo. Bà Val thú nhận rằng mình không phải là một người công giáo thuần thành, nhưng bà muốn dành cho con cái bà một nền giáo dục nhân bản đầy đủ. Bà cho biết: khi mới về nhà bà, những đứa trẻ này không hề có bất cứ một khái niệm nào về đúng sai, thiện ác.
Tất bật với đủ mọi công việc từ nấu ăn, giặt giũ, đưa đón con cái đến truờng, cụ bà trên 70 tuổi này nói: “Chúng tôi không có giờ để “già”. Thuơng yêu 4 đứa con nuôi như con ruột thịt, bà Val nói rằng “những đứa trẻ là gia đình của bà” và bà sẽ chiến đấu cho tới cùng để chúng không bị mang đi khỏi gia đình bà.
Truớc khi trở thành cha mẹ bảo dưỡng, ông bà Brown đã phải trải qua nhiều thủ tục kéo dài đến 6 tháng, bao gồm những cuối tuần hội thảo, phỏng vấn liên tục và điều tra của cảnh sát. Nhiều gia đình đã bỏ cuộc vì những thủ tục rất khắt khe này.
Hiện tại, trung bình mỗi tuần lễ, ông bà Brown được chính phủ trợ cấp thêm 775 Úc kim để chăm sóc cho 3 đứa trẻ còn trong tuổi vị thành niên. Nhưng chắc chắn tiền bạc không phải là động lực khiến họ nhận nuôi dưỡng những đứa trẻ bất hạnh này. Với sự đồng ý của con cái, hai ông bà còn hứa sẽ để lại nhà cửa và tài sản cho những đứa con nuôi.
Các trẻ em mồ côi ở Việt nam chắc phải còn lâu mới gặp được một sự may mắn như thế. Kể từ khi các tôn giáo không còn được phép mở các cô nhi viện, số phận của các em lại càng thêm bi đát hơn. Nhưng giữa một xã hội khô cạn tình người ấy mà còn bắt gặp được những tấm lòng vàng thì không những số phận của các em mồ côi mà cả tương lai của đất nước hẳn sẽ phải sáng sủa hơn. Đã có cô “Tim” người Thụy Sĩ với ngôi nhà may mắn. Đã có nhiều tổ chức không chính phủ chuyên chăm sóc các em đường phố. Nhưng “Trung Tâm Hiền Lương” tại xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An hẳn phải là  một nơi mà các trẻ em mồ côi Việt nam cảm nhận được tấm lòng vàng hơn cả. Mục “Chuyện Việt Nam” trên báo Việt luận số ra ngày 29 tháng 3 vừa qua có kể lại câu chuyện của anh Tạ Duy Sáu, giám đốc của Trung Tâm này. Xin được phép đọc lại câu chuyện: Là con út trong một gia đình nghèo có 6 người con, năm anh lên 10 tuổi thì người cha ngã bệnh, nằm liệt giường; các anh chị đành phải đi tha phương cầu thực. Nhưng tai họa ụp xuống khi một người anh và một người chị qua đời sau một cơn bạo bệnh. Kế đó, một người chị khác cũng mắc bệnh rồi bị bại liệt.
Chuẩn bị lên cấp hai, anh Sáu đành bỏ học theo mẹ ra đồng bắt cua, mò ốc. Năm 17 tuổi, anh lại khăn gói vào Đak lak làm phu mỏ. Nhưng bao nhiêu tiền dành dụm chưa kịp gởi về gia đình đều bị cướp đường lột sạch. Anh nói: “Không tiền, không nghề, chữ hiếu chưa được báo đặng, chẳng dám về quê, tôi vào Sài Gòn với hai bàn tay trắng.”
Anh kể tiếp: “Đói, bệnh, vô vọng, tôi đi như kẻ bụi đời và gục xuống bên lề một công viên. May mà tôi được hai cha con một ông mù hát rong cứu sống với lưng bát cháo. Tôi chợt nhận ra cái đạo của cuộc đời này. Tôi đã đứng thẳng dậy, lang thang khắp các con phố, làm đủ việc: bán vé số, bán báo rong, rửa bát thuê, khuân vác…Ngày cha mất, nhận được tin từ quê nhà mà tôi bất lực vì không có tiền về.”
Nhưng “như là duyên số”, anh gặp được người con gái cùng quê đồng cảnh ngộ. Họ lấy nhau và đưa nhau về quê sống. Chính tại quê nhà mà anh đã chứng kiến cảnh đời éo le của những em bé mồ côi, những người tật nguyền không nơi nương tựa. Hình ảnh cha con người mù hát rong lại hiện về trong tâm trí anh. Anh tự nhủ: “Người ta khổ như thế mà còn giúp đỡ mình, tại sao mình không thể giúp người khác?” Thế là hai vợ chồng anh liền bàn với nhau thế chấp tài sản, vay tiền để thành lập trung tâm để cưu mang, giúp đỡ trẻ em mồ côi, tật nguyền không nơi nương tựa. Những ngày đầu khi đi gom trẻ em mồ côi về nuôi, hai vợ chồng anh đã phải chống chọi với nhiều dư luận ác ý: người bảo đây là một việc làm điên rồ, người lại đồn thổi đó là âm mưu đón trẻ mồ côi về để bán sang Trung quốc. Công an lại làm khó dễ đủ điều.
Hiện Trung tâm đang cưu mang 46 em khuyết tật, mồ côi. Các em được dạy nghề để kiếm sống.
Nói về những giá trị đạo đức làm nền tảng cho họat động từ thiện của mình, anh Sáu giải thích: “Nhiều đoàn khách đến thăm trung tâm, ngắm nhìn những bức tượng Phật, những lời khuyên răn của đạo Phật bày ở gian chính giữa, hỏi rằng phải chăng chúng tôi theo đạo Phật?  Không, vợ chồng tôi chỉ theo “đạo đời”. Còn đạo Phật, đơn giản, tôi thấm thía những lời răn của Phật nên trưng ra đó để thường xuyên nhắc nhở mình phải sống nhân ái.” (x. Việt Luận 29/3/2011)
Nhân ái, từ bi của Phật Giáo, bác ái của Kitô giáo hay nói như anh Sáu, “ đạo đời”…tất cả đều quy về giới răn mà người Việt nam nào cũng thuộc nằm lòng: “Thương người như thể thuơng thân” hay câu chữ Hán quen thuộc “tứ hải giai huynh đệ”. Bất luận mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, chính kiến…ở đâu con người cũng đều có thể nhận ra là anh em của nhau. Ngay nay, ý niệm “gia đình nhân loại” lại càng giúp cho con người ý thức hơn về tình huynh đệ đại đồng ấy. Càng lúc thế giới càng ý thức về mối giây huynh đệ liên kết các dân tộc lại với nhau. Năm 1967, các nước Tây phương đã can thiệp vào Nigeria để chấm dứt cuộc nội chiến khiến cho hàng triệu người phải chết đói. Năm 1992, NATO đã can thiệp vào Rwanda để chấm dứt cuộc chiến tranh diệt chủng và năm 1994, Liên minh này cũng đã giúp chận đứng những cuộc tấn công của Serbia nhắm vào Kosovo. Nay, các cuộc không kích của Tây phương vào Libya theo lệnh của Liên hiệp quốc và sự can thiệp vào Cote d’Ivoire cũng không ngoài mục đích bảo vệ thường dân, những người anh em trong cùng một đại gia đình.
Tất cả những hành động can thiệp quân sự trên đây đều dựa trên lý thuyết “Trách nhiệm bảo vệ” thường được gọi tắt là “R2P, tức “Responsibility to Protect” (trách nhiệm phải bảo vệ). Lý thuyết này thật đơn giản: nhân quyền là phổ cập, mỗi một quốc gia đều phải bảo vệ nhân quyền; khi một quốc gia không thể bảo vệ nhân quyền thì các nước khác phải bảo vệ chúng. Lý thuyết này chắc chắn phải được xây dựng trên một ý niệm nền tảng được mọi người nhìn nhận: đó là tình huynh đệ đại đồng.
Nhân lọai ngày càng ý thức rằng thế giới là một đại gia đình trong đó chuyện “đèn nhà ai nấy sáng” xem ra không còn ý nghĩa nữa, bởi lẽ mọi người đều là “anh em trong cùng một nhà và đều có trách nhiệm liên đới với nhau”.
Tôi vẫn thường ngẫm nghĩ về bài học mà một vị linh sư nọ đã dạy cho các môn đệ của ông. Một hôm, vị linh sư đặt câu hỏi: “Khi nào thì người ta phân biệt được ngày với đêm?” Người thì bảo: người ta biết được đêm đã tàn và ngày mới đang lên khi từ đàng xa người ta có thể phân biệt được rõ ràng một con bò và một con trâu. Người lại cho rằng khi nào ta có thể phân biệt được một cây xoài với một cây mít, thì đó là lúc đêm đã hết và bình minh đã ló dạng. Vị thày ôn tồn bảo: “Các con ạ, ta chỉ thực sự biết đêm đã chấm dứt và ngày đang lên, khi từ đằng xa ta có thể nhận ra một người đang đi tới như người anh em của ta.”












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét