Chu Thập
10.05.11
Nhà viết tạp ghi Huy Phương,
sau một vòng tả oán về cuộc sống tất bật tại Mỹ, đã kết luận: “Ôi! Nước Mỹ lạnh lùng. Nước Mỹ khép kín. Nước
Mỹ thiếu tình người…Các sinh hoạt tập trung vào các khu kỹ nghệ, các khu thương
mãi. Ngày thường bạn thử lái xe đi một vòng vào các khu dân cư mà xem sao, nó
chẳng có sinh khí chút nào, kiểu vườn không nhà trống, kiểu vùng tạm chiếm “vắng
bóng trâu cày trên đồng, vắng bóng heo gà trong sân” (P.D). Và con người lạnh
lùng, đầu môi chót lưỡi, miệng nói: “Hi! How do you do!” nhưng trong lòng thì
chẳng mảy may rung động…” (Huy Phương, Nước Mỹ Lạnh Lùng, tuyển tập tạp
ghi, Nam Việt, Hoa kỳ 2006, trg 30)
Nước Úc miệt dưới của tôi nổi
tiếng là nơi có nhiều thành phố “đáng sống” nhứt trên thế giới. Mới đây, nhân
Ngày của Mẹ, người ta cũng trích dẫn kết quả của một cuộc thăm dò nào đó để bảo
rằng Úc là nơi tốt nhứt để “làm mẹ”.Trong cuộc sống hằng ngày, tôi cũng đã từng
nhận được những cử chỉ ân cần, tử tế của rất nhiều người Úc và rất hãnh diện được
làm một người Úc.
Tuy nhiên, khi đọc mấy dòng tạp
ghi trên đây của nhà văn Huy Phương, tôi thấy Nước Úc của tôi cũng “lạnh lùng”
không kém. Tôi có cảm nhận ấy nhân cái chết của cụ bà hàng xóm của tôi.
Bà cụ ở sát vách nhà tôi. Linh
tính đã nhiều lần mách bảo với tôi rằng cụ bà 81 tuổi này sẽ ra đi vào một lúc
không ai hay biết. Mà thật như vậy. Một buổi sáng cách đây một tuần, nếu không
có xe cứu thương đến, nếu không có bóng cảnh sát xuất hiện và cuối cùng nếu
không có xe nhà quàn đậu trước nhà, thì tôi không tin là bà cụ đã ra đi vào đêm
hôm trước. Cách đó hai tối, nhà tôi và tôi có sang giúp đỡ cụ. Chúng tôi thật
ái ngại khi phải đưa cụ lên giường và bỏ cụ lại một mình.
Sau khi người chồng qua đời
cách đây 5 năm, cụ bà sống một mình, nhưng tương đối không neo đơn lắm. Thỉnh
thoảng, người con gái và con cháu bà cũng đến thăm nom. Tháng Giêng vừa qua, họ
còn cho bà làm một chuyến đi Cruise trên biển hơn một tuần lễ. Nhân viên chăm
sóc (carer) thì một tuần đôi ba lần cũng đến giúp đỡ bà. Nhìn bên ngoài, người
ta tưởng bà có thể sống độc lập và tự lo cho mình trong hầu hết mọi nhu cầu. Thực
tế, tôi ái ngại là bởi đã thấy xuất hiện nơi bà những hội chứng của căn bệnh “mất
trí” (dementia) đang tấn công não bộ của bà. Một trong những dấu hiệu đó là nói
trước quên sau và thường lập đi lập lại một điều đến năm lần bảy lượt. Đã từng
là một giáo sư âm nhạc, cụ bà vẫn còn thỉnh thoảng gõ đàn Piano. Nhựt báo, cụ
cũng đọc mỗi ngày. Nhưng tiếng đàn và tin tức hằng ngày trên báo đã không ngăn
cản được tiến trình thoái hóa của não bộ. Dù vậy, tuyệt nhiên, cụ cương quyết
không để cho người con gái đưa vào viện dưỡng lão. Có lẽ cụ đã thấy trước cái
chết bất đắc kỳ tử của mình và muốn được ra đi trong khung cảnh bình yên của
ngôi nhà thân thương của mình chăng?
Và cụ đã lặng lẽ ra đi. Lặng lẽ
đến độ buổi sáng hôm đó, cả cái xóm nhỏ của tôi không ai hay biết. Nếu ở Việt
nam hay trong một khu có đông người Việt sinh sống thì có lẽ người ta đã ùa đến
nhà, nếu không vì hiếu kỳ, thì cũng để chia sẻ niềm đau với người thân của cụ
bà. Đàng này, từ nhà nhìn ra, tôi thấy cái xóm nhỏ với gần 20 nóc nhà của tôi vẫn
bình lặng và “lạnh lùng” như không có chuyện gì xảy ra.
Hôm đưa đám ma bà cụ, tôi lại
càng thấy cái xóm nhỏ của tôi lạnh lùng hơn nữa. Ngoài gia đình tôi và một người
đàn bà gốc Hoa mới dọn về được vài năm, tôi không thấy có một người nào trong
xóm có mặt trong đám tang. Cũng lạ thật, mới hôm tiệc Giáng Sinh của khu xóm hồi
năm ngóai, hầu như mọi người đều có mặt và tỏ ra rất thân thiện với bà. Vậy mà,
cái “nghĩa tử nghĩa tận” xem ra chẳng có ý nghĩa gì đối với những người láng giềng
của bà cụ!
Thực ra, có xảy ra một đám ma
như thế, tôi mới hiểu thêm cái văn hóa của người Úc. Sự ra đi của bà cụ hàng
xóm là dịp để tôi tham dự một đám tang của người Úc. Tôi thấy nó khác với đám
tang của người Việt mình xa lắm. Không có những tiếng kêu gào thương khóc, dù
là khóc dối như những người “khóc mướn”. Ai bảo người Úc hay người Tây phương
nói chung chỉ biết môi mép bên ngoài!
Điều lôi kéo sự chú ý của tôi
nhiều nhứt là trong tang lễ, tôi nhận thấy người con gái của cụ mặc một chiếc
áo đầm màu hồng tươi, trên cổ có choàng một giây vải cũng màu hồng. Người con rể và 3 cậu con trai cũng thắt cà vạt mầu hồng. Nếu bảo họ phục sức cho một đám cưới
hay một ngày vui thì cũng chẳng sai. Nhà thờ cũng được chưng bày những bông hoa
màu hồng. Nếu không có quan tài với những cành hoa hồng phủ lên trên thì ai vào
cũng có thể nghĩ mình đang tham dự một lễ cưới. Vào cuối buổi lễ, khi người con
gái lên diễn đàn để chia sẻ tâm tình, tôi mới hiểu. Thì ra, lúc sinh thời, cụ
bà rất thích mầu hồng. Điều khiến tôi suy nghĩ nhiều là trong tang lễ không những
không có tiếng khóc, mà các bài Kinh Thánh được chọn trong thánh lễ cũng muốn làm
toát lên bầu khí “hân hoan” hơn là tang chế. Riêng vị linh mục chủ lễ, trong suốt
buổi lễ, đã tập trung các lời nhắn nhủ vào hai chữ “celebrate” (ăn mừng, tán
dương): Mừng bà đã có một cuộc sống tràn đầy, sung mãn, vui tươi, hạnh phúc và tán
dương lối sống luôn tốt bụng, lạc quan, hòa nhã, ân cần của cụ bà! Điều này thì tôi xin được làm chứng. Tôi chưa
từng nghe cụ than thở về bất cứ điều gì. Mỗi lần có dịp trao đổi, cụ đều nói rằng
cụ luôn cảm thấy hài lòng và hạnh phúc với cuộc sống của mình, ngay cả lần cụ
phải vĩnh biệt một trong hai người con cách đây gần một năm.
Đây quả là một đám tang đặc biệt
mà tôi chưa từng tham dự. Từ nhà thờ đến nghĩa trang, nó cho tôi cái cảm giác
thanh thản, hân hoan và vui mừng hơn là buồn thảm. Khi một người đã sống vui, sống
hài lòng, sống sung mãn với những gì mình có, thì dù có ra đi trong hoàn cảnh
nào, người đó cũng để lại cho chúng ta nhiều niềm vui hơn là buồn khổ. Tự
nhiên, tôi nhớ lại kiểu nói mà người La mã ngày xưa thường xử dụng để nói về
người quá cố. Họ không gọi người chết là người đã ra đi, đã khuất núi, đã mất,
đã mãn phần, đã “băng hà” hay ngay cả đang yên giấc, dù có là giấc ngủ nghìn
thu…mà là người “đã sống” (vixit).
Thật vậy, cụ bà láng giềng của tôi “đã sống” và đã sống
một cách sung mãn cho nên đã để lại cho tôi một di sản quý báu nhứt là tình yêu
đối với cuộc sống. Cụ ưa thích mầu hồng bởi vì mầu hồng là mầu của hân hoan, hy
vọng và lạc quan.
“Yêu cuộc sống” này, nghe thì
dễ dàng, nhưng thực tế không phải lúc nào cũng trôi chảy, bởi vì cuộc sống
không phải lúc nào cũng toàn mầu hồng. Có cuộc sống nào mà không có khó khăn, vất
vả và khổ đau. Trong phần đề tựa cho cuốn sách “Ethics for the New Millennium”
(Đạo lý cho Thiên nhiên kỷ mới), đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của
Tây Tạng chia sẻ: “Mất quê hương vào tuổi
mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với
rất nhiều khó khăn suốt dòng đời. Khi nhìn lại, tôi thấy rất nhiều điều tưởng
chừng không thể vượt qua nổi, chẳng những vì không thể tránh, mà còn không sao
có được một giải pháp thuận lợi. Tuy nhiên, trên mặt tâm an bình và sức khỏe thể
lý, tôi có thể tự cho rằng mình đã đương đầu tương đối tốt. Nhờ vậy, tôi có thể
ứng phó với nghịch cảnh bằng trọn vẹn tiềm năng tinh thần, thể lý và tâm linh.
Tôi đã không thể làm khác hơn nữa. Nếu tâm tôi tràn ngập ưu tư và vô vọng, sức
khỏe sẽ bị tổn hại…
Khắp
mọi nơi và trong bất cứ xã hội nào, người ta cũng đều chịu đựng đau khổ và nghịch
cảnh, ngay cả những người thừa hưởng tự do và phồn vinh vật chất. Thật vậy, dường
như sự thiếu hạnh phúc mà loài người chúng ta phải chịu đựng đa phần đều do
chính chúng ta tạo ra. Do vậy, theo nguyên tắc, điều đó có thể tránh. Nhìn
chung, tôi còn thấy, các cá nhân với hành vi hợp luân lý thường hạnh phúc và
mãn nguyện hơn những người không màng đến luân lý. Điều này minh xác niềm xác
tín của tôi là nếu chúng ta có thể tái định hướng tư tưởng và cảm xúc của mình
và chỉnh đốn phẩm hạnh, chúng ta có thể không những đối phó với các nỗi khổ dễ
dàng hơn, mà còn ngăn ngừa được sự khởi dậy của chúng ngay từ đầu.” (Đức Đạt Lai Lạt
Ma, Đạo lý cho Thiên niên kỷ Mới, bản dịch của Linh Thụy)
Đọc những giòng trên đây của bậc
thày về nghệ thuật sống hạnh phúc và đối chiếu với cuộc sống của cụ bà láng giềng
mà tôi có dịp chứng kiến, tôi càng xác tín rằng dù trong hoàn cảnh nào, ai cũng
đều có thể cảm nếm được niềm vui và hạnh phúc mà cuộc sống luôn mang lại cho chúng ta. Dù “cuộc đời chỉ trao cho chúng ta một trái
chanh, chúng ta cũng có thể vắt ra để làm ra được một ly nước chanh” mà thưởng
thức.
Nhìn lại những quan hệ hài hòa
và tốt đẹp mà bà cụ láng giềng của tôi luôn có với những người xung quanh, tôi
cũng nghĩ rút ra được một bài học cho tôi là: nếu tôi luôn cư xử tử tế với mọi
người thì tâm hồn tôi mới có bình an và hạnh phúc. Cái kinh nghiệm thường ngày
luôn cảnh cáo tôi rằng nếu tâm tư tôi lúc nào cũng nuôi dưỡng đố kỵ, ganh tương
và nhứt là thù hận thì chắc chắn tôi chẳng bao giờ có được bình an và hạnh
phúc.
Trong những ngày vừa qua, mỗi
khi nghĩ đến cái gương “đã sống” của cụ bà hàng xóm, tôi cũng không thể tránh
khỏi hình ảnh cái chết thảm thương của trùm khủng bố Osama Bin Laden. Cái chết
của ông cũng là dịp để cho vô số người Mỹ và không biết bao nhiêu người trên thế
giới “celebrate”. Thế giới của những người còn biết suy nghĩ bằng lý trí bình
thường và với những cảm xúc thật sự “nhân bản” hẳn phải vui mừng. Vui mừng không
phải vì giết được một kẻ thù, cho bằng vì trút bỏ được cái gánh nặng khủng khiếp
của hận thù và bộ mặt của sự Dữ.
Thực tình mà nói, nhìn cho kỹ,
tôi thấy gương mặt của ông Bin Laden không đến nỗi “dữ dằn” như Hitler, Stalin,
như Mao Trạch đông. Có lúc tôi cũng thấy gương mặt ấy nở một nụ cười mà bình
thường người ta nghĩ là của một “đạo sĩ” khắc khổ hơn là của một biểu tượng của
độc ác.
Tôi thấy thương hại ông. Dĩ
nhiên, nếu ông cũng tin có một Thượng Đế như tôi, thì sau cái chết, khi phải ra
trước mặt Ngài, ông phải chịu trách nhiệm về cái chết của vô số những người vô
tội mà ông đã sát hại. Nhưng “phán xét” là chuyện của bên kia thế giới. Chẳng
ai có thể biết “trắng đen” về chuyện ấy. Tôi chỉ nghĩ đến chuyện của cuộc sống
tại thế này. Là một con người cũng có một lương tâm như tôi, liệu ông có thể “vui
mừng” khi sát hại những người vô tội không? Tâm hồn ông có thể bình an khi nhìn
thấy máu của vô số sinh linh mà ông đã nhúng tay vào không? Liệu trong cuộc sống chui sống nhủi trong hang
động ở Afghanistan hay ở Abbottabad, Pakistan, ông có thực sự “sống” như một
con người bình thường không? Không, với
tôi, Osama Bin Laden “đã chết” từ lâu rồi! Ông “đã chết” trong nấm mồ của hận
thù do chính ông tự đào cho mình.
Hình ảnh của ông gợi lại cho
tôi bài thơ có tựa đề “Conscience” (lương
tâm) của thi hào Pháp Victor Hugo hồi thế kỷ 19. Bài thơ dựa trên Kinh Thánh kể
lại chuyện Cain giết em mình là Abel và bị Thiên Chúa hiện ra tra hỏi: “Em
ngươi đâu?” Trong bài thơ, lương tâm được tượng trưng bằng một con mắt mà cho
dù được trú ẩn dưới hố sâu, Cain vẫn nhìn thấy. “L’oeil était dans la tombe et regardait Cain.” (con mắt vẫn hiện
diện trong mộ và nhìn Cain)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét