Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Trông mặt mà bắt hình dong...



Chu Thập
20/11/14

Trong ba nhà lãnh đạo tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G20 và nán ở lại Úc Đại Lợi để được trải thảm đỏ và đọc diễn văn tại Quốc hội Liên bang là nữ thủ tướng Đức Angela Markel, thủ tướng Ấn độ Narendra Modi và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, một người Việt tỵ nạn như tôi dĩ nhiên chỉ chú ý đến nhà lãnh đạo Trung Quốc, người lúc nào cũng nở nụ cười “Mona Lisa” này. Có lẽ các nhà lãnh đạo chính trị Úc cũng đã dành cho ông một sự nghênh đón nồng nhiệt hơn bất cứ lãnh tụ nào, bởi vì Úc Đại Lợi vừa ký kết được với Trung Quốc một Thỏa ước Mậu dịch Tự do mà chính phủ Úc hy vọng sẽ mở ra một chân trời sáng lạn cho kinh tế Úc.
Có lẽ hãnh diện vì đạt được một thỏa ước đầy hứa hẹn như thế chăng mà thủ tướng Tony Abbott đã đưa Trung Quốc và cá nhân Chủ tịch Tập Cận Bình lên chín tầng mây. Trong bài diễn văn chào mừng nhà lãnh đạo Trung Quốc của Thủ tướng Abbott , tôi đặc biệt nhớ câu: “Chúng ta đầu tư (=làm ăn) với những người chúng ta tin tưởng”. Tôi nghĩ thầm trong bụng: để chờ xem Úc Đại Lợi sẽ tin tưởng người khổng lồ cộng sản này được bao lâu!
Về phần mình, trong bài diễn văn đọc tại Quốc hội Liên bang Úc chiều thứ Hai 17 tháng 11 vừa qua, chủ tịch Tập Cận Bình cũng nói một câu mà tôi tin chắc là những người Việt tỵ nạn tập trung trước tòa nhà Quốc hội ở Canberra để phản đối Trung Quốc hẳn không thể nghe “lọt tai” được. Ông nói rằng: “một bầu khí quốc nội hài hòa và ổn định và một bầu khí quốc tế hòa bình là điều mà Trung Quốc cần nhứt”. Một người Việt Nam như tôi và tôi cũng nghĩ rằng hầu hết người dân tại các nước có lãnh hải bị Trung Quốc ngang nhiên đem quân xâm chiếm, còn lâu mới tin rằng quốc gia cộng sản khổng lồ này muốn thấy một “bầu khí quốc tế hòa bình”. “Hòa Bình” mà ông Tập Cận Bình cho là thứ mà Trung Quốc đang cần nhứt có khác gì thứ “Hòa Bình La Mã” (Pax Romana) do hoàng đế La Mã Augustus thiết lập và áp đặt lên các nước đang bị đế quốc thống trị vào thế kỷ thứ nhứt và thứ hai sau Công Nguyên. Đó là thứ “hòa bình” mà Liên Xô và Trung Cộng cũng đã từng hô hào qua không biết bao nhiêu hội nghị hòa bình và trước năm 1975, tôi thường nghe người cộng sản Miền Bắc “nhảy múa” ca ngợi qua  vũ điệu “hòa bình”.
Quen thói nhìn người theo lối “trông mặt mà bắt hình dong”, tôi thấy mình đã hoàn toàn sai lầm khi dành cho ông chủ tịch có nụ cười không để hở hàm răng này cảm tình và những ý nghĩ cao quý nhứt. Một con người lúc nào cũng mỉm cười lẽ nào lại không là một con người hiền hòa nhân ái, chỉ biết tưởng nghĩ đến hòa bình và hạnh phúc của người khác. Nhưng tôi đã lầm. Tôi không biết ai đó có hối tiếc không khi nghĩ rằng chủ tịch Tập Cận Bình sẽ là một Mikhail Gorbachev của Trung Quốc.
Tôi đã lầm. Đàng sau nụ cười hiền hòa nhân ái ấy là cả một tham vọng ngất trời kèm với những chủ trương mà một người bình thường khó có thể gọi là “hòa bình” hay “hiếu hòa” được.
Tạp chí Time, số ra ngày 17 tháng 11 vừa qua đã cho tôi nhìn thấy con người thật của ông Tập Cận Bình. Theo tạp chí này, hồi năm ngoái, ông đã nhắc lại cho các đảng viên cộng sản Trung Quốc một số điều lệ trong đó ông chỉ ra 7 giá trị và định chế của Tây Phương mà Trung Quốc phải triệt hạ bằng mọi giá. Trong số những giá trị và định chế của Tây Phương mà ông Tập Cận Bình yêu cầu phải chống lại, đáng kể nhứt là dân chủ, tính độc lập của các cơ quan truyền thông, xã hội dân sự và thị trường tự do. Ngay cả những “giá trị phổ cập” như nhân quyền cũng bị lãnh tụ có nụ cười hiền hòa này xem như không phù hợp với xã hội Trung Hoa. Thay vào đó, ông đặt Đảng Cộng Sản Trung Quốc lên trên mọi định chế khác, kể cả các tòa án và hiến pháp.
Kể từ khi con người luôn mỉm cười này lên cai trị quốc gia chiếm tới 1 phần 5 dân số thế giới, hàng trăm người nào dám  lên tiếng đặt lại vấn đề về “lẽ khôn ngoan” của Đảng, đều bị giam giữ mà không thông qua bất cứ một thủ tục tư pháp nào. Hơn ai hết, chủ tịch Tập Cận Bình đã siết chặt việc kiểm soát việc xử dụng Internet, bịt miệng ngay cả những nịnh thần chuyên ca như vẹt về công cuộc cải tổ của Đảng. Tại Hong Kong, qua cuộc biểu tình đòi tự do bầu cử của sinh viên hồi tháng trước, người ta thấy Bắc Kinh đã không để lộ bất cứ dấu hiệu nào cho biết sẵn sàng lắng nghe những nguyện vọng chính đáng của người dân đã từng sinh ra và lớn lên tại nhượng địa Anh Quốc này.
Theo tạp chí Time, việc đàn áp những người bất đồng chính kiến đã đạt đến những tỷ lệ khác thường. Trong tháng trước chẳng hạn, an ninh Trung Quốc đã bắt nhốt hàng tá nghệ sĩ thường tập trung ở một khu ngoại ô Bắc Kinh. Một số bị bắt đem đi vì cho phát tán những bài bình luận về cuộc biểu tình đòi dân chủ tại Hong Kong. Một số khác bị giữ  khi tập trung lại để chỉ nghe đọc thơ. Những người tìm cách giúp đỡ các gia đình của những người bị bắt giữ cũng bị lùa đi. Một nghệ sĩ đã nói với phóng viên Hannah Beech của tạp chí Time rằng những người bị bắt giữ “không hề muốn “tử đạo”. Không một người nào trong họ tìm cách tổ chức một cuộc nổi loạn nào cả. Họ chỉ muốn bày tỏ ý kiến mà thôi”.
Chỉ mới bày tỏ ý kiến thôi mà đã gặp rắc rối như thế, huống chi  tìm cách “nổi loạn”. Phóng viên Hannah Beech viết rằng với Chủ tịch Tập Cận Bình, “quyền  tự do ngôn luận và tranh luận là những “bất bình đẳng” của Tây Phương mà Đảng cộng sản cần phải đề phòng nếu muốn tránh số phận của cựu Liên Xô”. Trong một bài diễn văn đọc trước các đảng viên dạo tháng 12 năm 2012, Chủ tịch Tập Cận Bình cho rằng “lý do quan trọng nhứt cho thấy tại sao Đảng cộng sản Liên Xô sụp đổ là vì những lý tưởng và niềm tin của họ bị lung lay”.
Theo nhận định của tạp chí Time, mặc dù thân phụ mình đã từng bị đồ tể Mao Trạch Đông thanh trừng và bản thân ông, lúc còn là một thanh niên, đã từng bị đày về thôn quê để sống lam lũ cơ cực, ông Tập Cận Bình lại là một người bảo thủ, luôn trung thành với lý tưởng “độc tài” và tàn bạo của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng “bảo thủ” có lẽ chỉ là bình phong che đậy điều mà ông gọi là “giấc mơ Trung Quốc”, tức một “siêu cường” bá chủ thế giới. Chỉ dưới thời của ông, thế giới mới thấy số thông hành của Trung Quốc có in bản đồ hình “lưỡi bò” liếm hầu hết lãnh hải và hải đảo của các nước Biển Đông. Jerry Hendrix, một cựu sĩ quan hải quân Mỹ hồi hưu và hiện đang là một phân tách gia về Á Châu, cho rằng tham vọng của ông Tập Cận Bình là đặt Trung Quốc vào trung tâm thế giới, tức trở lại ý nghĩa đích thực của hai chữ “Trung Hoa” và vị trí của ông cũng sẽ là trung tâm của thế giới ấy. Kề từ sau Mao Trạch Đông, chưa có lãnh tụ Trung Quốc nào có một địa vị “trung tâm” như ông Tập Cận Bình. Thay vì chia sẻ trách nhiệm với 7 thành viên của Bộ Chính Trị, ông trực tiếp nắm quyền điều khiển mọi ủy ban về an ninh quốc gia, kiểm duyệt, Internet, tái cấu trúc quân đội, chính sách ngoại giao và ngay cả cải tổ kinh tế.
Không biết có phải do “học tập theo gương đạo đức của Bác Hồ” vĩ đại của đàn em cộng sản Việt Nam không, ông Tập Cận Bình  rất thích được dân chúng xưng gọi là “Xi Dada”, nghĩa là “Bác Tập”. “Bác Tập” lúc nào cũng cố gắng biểu lộ hình ảnh của một con người bình dân, “hiền lành”, “dễ thương, dễ mến”, gần gũi với dân chúng. Thực ra, ông có thua gì “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao” đâu. Xét cho cùng, trong thế giới cộng sản, “Bác” nào cũng đều là “Bác” cả: “Bác” nào cũng “khiêm tốn nhường ấy”; “Bác” nào cũng dễ thương nhường ấy, nhưng “Bác” nào cũng ôm mộng bá quyền, đạp lên đầu lên cổ nhân dân và dĩ nhiên giết người thì chẳng gớm tay. Cuốn “Hắc thư của Chủ nghĩa Cộng sản” ( Le livre noir du communisme) do một số cựu đảng viên cộng sản Pháp biên soạn và được nhà xuất bản Éditions Robert Laffont phổ biến năm 1997 đã ghi lại vô số hành động tội ác, khủng bố và đàn áp của tất cả các chế độ cộng sản trên thế giới kể từ sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917. Đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa này, ông Tập Cận Bình hẳn đã biết quá rõ chính đồ tể Mao Trạch Đông đã sát hại trên dưới 36 triệu đồng bào ruột thịt của mình.
Tôi vẫn cứ thắc mắc: một người đã từng là nạn nhân của chế độ cộng sản, lại từng được tu nghiệp bên Mỹ một thời gian, vẫn chưa chịu mở mắt mà lại cố bám vào cái thây chết vốn đã bị thế giới quăng vào sọt rác của lịch sử. Tôi nghĩ chỉ có tham vọng quyền bính mới có thể giải thích được tại sao vẫn còn có nhiều người chạy theo thứ chủ nghĩa đồi bại này.
Dĩ nhiên, chủ nghĩa tự nó đồi bại thì những người cố bám vào nó cũng đồi bại thôi. Chẳng có người cộng sản nào mà không dối trá. Chẳng có người cộng sản nào mà không độc ác. Nụ cười hiền hòa nhân ái trên gương mặt của ông Tập Cận Bình đã không thể che dấu được bản chất cộng sản ấy. Trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội Liên bang, ông có trích dẫn câu nói quen thuộc của người Úc “Hãy nhìn lên mặt trời và bạn sẽ không còn thấy bóng tối” (keep your eyes on the sun anh you will not see the shadows) để kêu gọi tôn trọng những khác biệt của Trung Quốc và Úc Đại Lợi về lịch sử, văn hóa, hệ thống xã hội và trình độ phát triển. Dĩ nhiên, khác biệt về lịch sử, văn hóa, tôn giáo...là điều cần được tôn trọng. Nhưng không thể gọi những chà đạp và vi phạm nhân quyền cũng như tội ác là những khác biệt cần phải tôn trọng. Con người, ở đâu và thời nào, cũng đều giống nhau ở một số điểm căn bản như: muốn được người khác tôn trọng, muốn được suy nghĩ bằng cái đầu của mình, muốn được tự do, nhứt là tự do tư tưởng và ngôn luận...Xúc phạm đến phẩm giá con người, thì ở đâu và thời đại nào cũng đều đáng bị lên án cả. Nụ cười thân thiện và “hiền lành dễ thương” của ông Tập Cận Bình chắc chắn không thể khỏa lấp được bất cứ tội ác nào mà chế độ do ông lãnh đạo đã và đang làm đối với chính người dân của ông cũng như vô số nạn nhân khác trên khắp thế giới.

Trên bàn làm việc trước mặt tôi là nụ cười của Đức Phanxicô, nhà lãnh đạo tinh thần của trên một tỷ người công giáo và của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng. Tôi tin chắc rằng hai nụ cười này chỉ có thể là biểu hiện của  chân thật,  từ bi, nhân ái, hiền lành và cảm thông mà thôi. Như nhạc sĩ Nam Lộc đã khuyên, “hãy mỉm cười với cuộc sống” và với mọi người, tôi mong cũng luôn được mỉm cười với tất cả tấm lòng chân thật như hai nhà lãnh đạo tinh thần trên đây, bởi lẽ không gì bỉ ổi bằng dùng nụ cười để che đậy “ý đồ” đen tối và gian ác của mình.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét