Chu Thập
23.05.11
Với tôi, sự hiện diện của gia
súc, gia cầm lúc nào cũng mang lại niềm vui cho con người. Lúc còn nhỏ, mỗi
ngày cứ tờ mờ sáng, tôi có cái thú đi lượm trứng vịt trong vườn. Giữa cảnh
tranh sáng tranh tối, cứ thấy có một “điểm trắng” thì biết đích thị là trứng vịt.
Giống vịt mất bản năng làm mẹ thường chỉ đẻ về đêm hay gần sáng. Ở nhà quê hầu
như nhà nào cũng nuôi năm mười con để chuẩn bị ăn Tết hay mừng lễ Giáng Sinh, nếu
là người Công giáo. Trong khi chờ đợi thì trứng vịt cũng là một món ăn đậm đà
quê hương: chỉ cần luộc lên vài trứng, dầm trong nước mắm ớt, chấm với rau luộc,
đặc biệt là bầu luộc thì tôi vui chẳng khác gì thằng Bờm, có đổi “ba bò chín
trâu” cũng chẳng muốn cười.
Riêng trứng gà thì quý hơn. Nếu
không cho gà mái ấp thì mẹ tôi cũng để dành một số để gọi là “xin lễ” hay biếu
ông cha sở. May lắm mới còn sót lại vài trứng và lũ con chỉ được “với tới” khi
đau bịnh mà thôi.
Cũng may, nhờ mấy chị heo nái
siêng đẻ và nhứt là nhờ tài vun vén của một bà mẹ luôn biết thiết lập “ngân
sách” gia đình cho nên anh chị em chúng tôi không đến nỗi thiếu ăn thiếu mặc.
Có heo gà vịt, có lúa đầy bồ,
cho nên cũng phải có chó mèo cho đề huề. Mèo thì dĩ nhiên phải túc trực thường
xuyên trong nhà vì chuột lập ấp chiến lược ngay bên bồ lúa. Cũng may cho mèo,
vào cái thời tôi còn nhỏ, mèo chưa phải là một món “tiểu hổ” khoái khẩu đối với
dân làng cho nên đa số thường “mãn phần” khi quá già hay bị xe cán, xui xẻo lắm
mới bị lũ nhỏ tinh nghịch chúng tôi trấn nước vì không thích cái tiếng kêu “meo
meo” khó chịu và cái nhìn khó ưa của chúng.
Tội nghiệp nhứt có lẽ là mấy
con chó trong nhà. Một bà chị lớn của tôi lập gia đình rồi mà chưa có đủ khả
năng để “ra riêng” cho nên mấy anh chị em chúng tôi luôn có cháu để ẵm suốt
ngày. Ngoài nghĩa vụ giữ nhà, mấy con chó trong nhà luôn tỏ ra đắc lực trong
công tác dọn dẹp “vệ sinh” đối với mấy đứa cháu nhỏ. Mỗi sáng, hễ bà chị xốc một
đứa cháu lên để “xi xi” vài tiếng thì vàng, vện, mực, trắng gì cũng có mặt
ngay. Trung thành như vậy đó, vậy mà làng xóm hễ có lễ lạc thì ít nhứt cũng có
một con phải bị cho vào bao bố mang ra trấn nước để được giải thoát khỏi kiếp
chó.
Trong khi ở quê mình, vào thời
trước, chó mèo như là những trợ thủ đắc lực trong gia đình chứ chẳng mấy ai
nuôi để lấy tiếng sang. Mãi cho đến khi ra khỏi nước, tôi vẫn coi gia súc gia cầm
như nhau, chưa có chút “cảm tình riêng” với chó mèo. Nhứt là hồi mới đến Pháp.
Đến cái thời “chó chết” sau 1975, người dân xã hội chủ nghĩa đói meo, không có
đủ vải để che tấm thân gầy, thì ở đây trên truyền hình “mẫu quốc” lúc nào cũng
có những màn quảng cáo về đồ ăn cho chó mèo, ra đường thì thấy người ta dắt mấy
cô cậu chó ăn mặc bảnh bao, lại còn tự do phóng uế ngay giữa đường phố thủ đô,
thấy bắt ngứa con mắt. Cho nên, thằng người tỵ nạn như tôi đâm ra ghét chó,
ghét mèo, ghét lây cái đám nhà giàu trưởng giả cứ lên giọng bênh vực súc vật.
Phải mất đi bao nhiêu năm, sau
khi để cho bơ sữa, rượu vang thấm vào da thịt, tôi mới bắt đầu làm quen với cái
thói trưởng giả và có chút cảm tình với chó mèo nuôi trong nhà. Dù vậy cho tới
nay, dù có nhập gia tùy tục và hội nhập đến đâu, tôi cũng không thể nào cho
phép chúng nó được “bình đẳng” để leo lên ngồi chễm chệ trên bộ salông trong
phòng khách hay ngủ chung trên giường. Và dĩ nhiên, “chơi với chó để nó liếm mặt”
thì còn lâu! Hiện nay, tôi thấy không cần có chó để giữ nhà, không cần có mèo để bắt
chuột và cũng chưa đến nỗi cô đơn để phải “làm bạn” với chó mèo. Cứ nghĩ đến
chuyện phải bế chó đi chích ngừa, “bưng bô” hay tắm gội cho chúng nó là tôi thấy
oải rồi ! Bù lại, tôi lại có vài chị gà mái và một cặp vịt xiêm cũng dễ thương
như những loài “thú cưng” khác.
Mấy chị gà mái của tôi có lẽ sẽ
muôn đời “đồng trinh sạch sẽ” bởi vì luật của vùng tôi ở cấm nuôi gà cồ. Không
có bóng gà trống, các chị cứ thi nhau đẻ. Và vì chưa một lần được làm mẹ cho
nên các chị hay than thở, thở than suốt ngày. Nhằm lúc trở trời mưa gió, các chị
đình công cả đám.
Kể từ lúc có cặp vịt xiêm tôi
thấy vui hơn. Cách đây hai tuần, sau đúng 28 ngày nằm ấp, chị vịt mái của tôi
cho ra đời tám chú vịt con thật dễ thương. Trong 28 ngày, tôi nghĩ phải quan
sát cảnh vịt mái nằm ấp mới cảm nhận được tình mẫu tử. Dù đã tự làm một cái ổ
thật êm bằng những cọng cỏ rác, vịt mẹ còn tiếp tục rứt thêm những cọng lông của
chính mình để che phủ ổ trứng cho thật dầy rồi mới nhẹ nhàng nằm lên ấp. Có những
ngày liền vịt mẹ không rời khỏi ổ một phút, cùng lắm chỉ đứng lên hoặc đổi thế
nằm mà thôi. Những ngày cuối cùng thì tuyệt nhiên, chị không màng đến chuyện ăn
uống.
Nhưng cảm động nhứt phải là
giây phút cái trứng khẩy mỏ, con vịt con kêu chít chít và chuẩn bị ra đời. Sự sống
quả là huyền diệu.
Sự sống ấy lại càng huyền diệu
hơn khi đàn vịt con líu lo líu lít suốt ngày. Chẳng khác nào trong nhà có tiếng
trẻ con. Những lúc đầu óc căng thẳng, tôi đứng nhìn lũ vịt hằng giờ mà không biết
chán. Chỉ cần hai, ba ngày tuổi là chúng nó đã biết tự lập, sục sạo khắp nơi. Vịt
mẹ của tôi, tuy không biết “dậm chân” giận dữ mỗi khi tôi bắt con nó, nhưng lúc
nào cũng thể hiện một thứ tình mẫu tử thật “huyền nhiệm”. Những lúc vịt mẹ dùng
mỏ “khỉa khỉa” trên mấy con vịt con tôi thấy chẳng khác nào người mẹ nựng con. Gặp
những lúc trời mưa hay trở lạnh, người ta mới cảm nhận được sự bao bọc chở che
của mẹ vịt. Tối đến, vịt con ríu rít theo mẹ vào chuồng. Những ngày mưa gió vừa
qua, tôi nghĩ chẳng có nơi nào “ấm” hơn cái ổ vịt của tôi. Mẹ vịt có thể “hy
sinh” đứng cả đêm để cho con cái được quây quần xung quanh.
Mỗi lần đứng ngắm nhìn đàn vịt
con bên vịt mẹ, tôi không thể không nghĩ đến cái bản năng kỳ diệu được phú bẩm
cho thú vật. Có chấp nhận một Đấng Tạo Hóa hay không, không ai có thể chối cãi
được cái bản năng ấy nơi thú vật. Có cảm giác, biết đau đớn, vui buồn đã đành,
mà trong một số cử chỉ, thú vật cũng cho
tôi cái cảm tưởng như thể chúng biết “suy nghĩ” và thể hiện điều mà chúng ta gọi
là tình yêu.
Mới đây, tôi đọc được một mẩu
tin khá ngộ nghĩnh trên báo mạng “The National Catholic Register”, một tờ báo Công
giáo phát hành tại Hoa kỳ. Tại một giáo xứ nọ, vị linh mục nhận thấy giáo dân của
mình cứ từ từ bỏ giáo xứ để kéo nhau đến thờ phượng tại một “siêu thánh đường”
(megachurch) Tin lành bên cạnh. Trong “siêu thánh đường” này có màn ảnh rộng,
có chiếu hình, có ban nhạc kích động và dĩ nhiên, vị mục sư thuyết giảng cũng
hùng hồn cho nên bài giảng cũng ít buồn ngủ hơn các linh mục. Làm thế nào để
lôi kéo giáo dân trở về giáo xứ? Vị linh mục nghĩ nát óc mà không tìm được giải
pháp. Thế rồi dịp may lại đến. Một tờ báo địa phương loan báo rằng một gánh xiếc
sắp đóng cửa, muốn tìm một nơi nương tựa cho 5 chú khỉ. Vị linh mục liền chộp lấy
thời cơ: còn đâu là nơi thích hợp hơn để đón tiếp 5 chú hề gánh xiếc này cho bằng
nhà xứ. Thật ra, vị linh mục đã có một hậu ý: vì biết 5 chú khỉ đã được huấn
luyện nhuần nhuyễn, ông nghĩ đến việc xử dụng chúng vào việc giúp lễ trên bàn
thờ. Thật không thể tưởng tượng. Năm chú
khỉ làm công việc trên bàn thờ còn nghiêm trang sốt sắng hơn cả các cậu bé hay
cô bé giúp lễ. Được cho mặc quần áo “giúp lễ”, các chú lại chắp tay nghiêm
trang, mắt lim dim trông chẳng khác nào các tu sĩ đang cầu nguyện và xuất thần.
Kết quả đã diễn ra như vị linh mục dự đoán, giáo dân từ từ trở về giáo xứ, sự đóng
góp ngày càng gia tăng. Nhiều trẻ em xin cha mẹ cho phép tham dự thánh lễ mỗi
ngày. Hiện người ta đang nghĩ đến chuyện huấn luyện mấy chú chó để đảm nhiệm việc
tiến dâng của lễ lên bàn thờ!
Các nhà lãnh đạo Giáo hội Công
giáo tại Hoa kỳ chưa chính thức lên tiếng về sáng kiến “táo bạo” này của vị
linh mục. Nhưng nghĩ cho cùng, xem ra sáng kiến cũng chẳng có gì đi ngược với
tinh thần đích thực của Kitô giáo. Kinh Thánh há chăng viết rằng mọi tạo vật đều
cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa đó sao? Tạo điều kiện cho khỉ chó đại diện cho
thú vật để được có mặt trên bàn thờ và góp phần vào việc tế lễ và ngợi khen
Thiên Chúa chẳng phải là một điều “chính đáng và phải đạo” sao? Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh sống tại Ý
vào thời Trung cổ, cũng đã tiên phong trong cử chỉ táo bạo này khi gọi các tạo
vật, kể cả muôn tinh tú là “anh chị em” của mình. Ngày nay, vị thánh này được cả
thế giới nhìn nhận như sứ giả của Hòa bình. Assisi đã trở thành biểu tượng của
hòa bình thế giới. Chính vì thế mà ngày 26 tháng 10 năm 1986, đức giáo hoàng
Gioan Phaolô II đã mời các vị đại diện của các tôn giáo trên thế giới về đây để
cầu nguyện cho hòa bình thế giới theo tinh thần của thánh Phanxicô.
Theo vị thánh này, để có hòa
bình, trước tiên con người cần phải có hòa bình với thiên nhiên. Đây chắc chắn
cũng là ý tưởng nổi bật của Phật Giáo. Có lẽ không có tôn giáo nào kêu gọi con
người sống hòa bình với thiên nhiên cho bằng tôn giáo này. Nếu muôn thú cỏ cây
được con người tôn trọng như cùng thuộc về một gia đình chung là thiên nhiên,
thì làm sao con người lại không nhìn nhận người đồng loại như anh chị em của
mình?
Nhân ngày của Mẹ, tôi tưởng nhớ
người mẹ quá cố của tôi đã đành, tôi cũng nghĩ đến Người Mẹ chung mà thế giới
ngày càng quan tâm tới là Mẹ Thiên Nhiên.
Mới đây, bà Amy Chua, một giáo
sư luật tại đại học Yale, Hoa kỳ đã cho xuất bản một cuốn sách tự thuật có tựa
đề “Battle Hymn of the Tiger Mother” (bài ca chiến thắng của bà Mẹ dữ như cọp).
Trong cuốn sách gây nhiều tranh cãi, bà Amy Chua, một người gốc Hoa, đề cao sự
nghiêm khắc của thân phụ khi bà còn theo học tại Philippines và tự xưng là “một
người mẹ dữ như cọp” trong việc giáo dục hai đứa con gái của bà. Muốn hay
không, ít có ai phủ nhận rằng sự nghiêm khắc của các cha mẹ người Hoa đã hỗ trợ
rất nhiều trong sự thành công của con cái trong việc học hành.
Tôi thường nghĩ đến Mẹ Thiên
Nhiên với hình ảnh của Người Mẹ dữ như cọp này. Thực vậy, Mẹ Thiên Nhiên thường
tỏ ra rất nghiêm khắc. Những vùng đất bị sa mạc hóa, những hải đảo đang bị nhấn
chìm, những cơn bão lụt tại Queensland, Victoria Úc, trận động đất, sóng thần
đưa đến tai họa phóng xạ tại Nhựt hôm11/3 vừa qua, những “con ma đụn” khủng khiếp
(tornado) mới đây tại một số tiểu bang miền Nam Hoa kỳ…là những cảnh cáo của Mẹ
Thiên Nhiên. Với tôi, qua những thiên tai ấy, Mẹ Thiên Nhiên muốn nhắc nhở con
người rằng khoa học và kỹ thuật, dù có tiến bộ đến đâu, cũng không bao giờ bảo
đảm cho con người một sự an toàn tuyệt đối. Thế giới vừa kỷ niệm 25 năm vụ nổ
lò nguyên tử tại Chernobyl, Ukraine. Những bóng ma vẫn còn lảng vảng tại vùng đất
hoang tàn này sẽ mãi mãi cất lên tiếng kêu than và oán trách về sự dựa cậy vào
khoa học kỹ thuật và thái độ tự mãn của con người.
Mẹ Thiên Nhiên cũng có lúc tỏ
ra “phẫn nộ” để nói với loài người rằng Mẹ đang bị lợi dụng, khai thác, bóc lột,
xài xể một cách bừa bãi, vô tội vạ. Mẹ Thiên Nhiên khẩn khoản nài van rằng thế
giới chỉ thực sự có hòa bình khi nào con người biết tôn trọng và bảo tồn môi
sinh. Làm sao có hòa bình được khi con người chưa có hòa bình với Mẹ Thiên
Nhiên?
Hòa bình thế giới quả là chuyện
“đại sự”. Nhưng mỗi lần đứng ngắm nhìn đàn vịt của tôi đang vui đùa dưới bóng
lá giây su và mướp leo chung một giàn, tôi lại nghĩ đến hòa bình. Có tìm được
an bình trong thiên nhiên, với thiên nhiên, con người mới có thể xây dựng hòa
bình với tha nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét