Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Món Quà Trao Nhau


                                                                           Chu Thập
Giáng sinh 2010

Những ngày chuẩn bị Giáng Sinh, đi rảo một vòng phố xá, tôi nhận thấy hầu như ai cũng “tất bật” với chuyện mua sắm quà tặng. Giáng Sinh không chỉ là mùa để nghỉ ngơi, gặp gỡ, sum họp gia đình hay ăn uống, mà còn là dịp để “trao tặng”.
Ở trong nước dưới thời xã hội chủ nghĩa hiện nay, “tặng quà” đã trở thành một thứ “phong tục”. Nói theo kiểu nói dân gian, việc gì cũng phải có thủ tục “đầu tiên”. Tổ chức “Minh Bạch Quốc Tế” vừa cho công bố một bản báo cáo về tình hình tham nhũng tại Việt nam. Báo “Đời sống và Pháp Luật” trong nước, số ra ngày 16 tháng 12, cũng trích dẫn báo cáo của tổ chức này như sau: tham nhũng tập trung vào các lãnh vực như cảnh sát 82 %, giáo dục 67%, cán bộ công chức nhà nước 61%, tư pháp 52%. Để gọi là làm sáng tỏ báo cáo này, báo Đời sống và Pháp luật đã phỏng vấn ông Lê Mạnh Luân, phó văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống Tham nhũng Trung ương. Ông này trút hết “tội lỗi” lên đầu người dân, bởi vì, theo ông, người dân “cố tình đưa tiền chạy chọt” và bởi vì “khó phân biệt quà biếu với hối lộ”. Ông quan này nói chuyện huề trớt như sau: “Tham nhũng nước nào cũng có, nhưng ở các nước, công chức hưởng lương 40 ngàn USD thì việc chống tham nhũng không đến nỗi khó, nhưng ở ta lương công chức trung bình vài triệu đồng/tháng thì khó ổn định cuộc sống nên dễ sa ngã. Thêm vào đó luật của chúng ta cũng chưa rõ ràng, ý thức tôn trọng pháp luật của người dân còn hạn chế. Chúng ta còn có những phong tục tập quán cứ giúp đỡ nhau thì có quà cám ơn, ranh giới khó phân biệt đâu là quà và đâu là hối lộ.” (x.Việt báo online 17/12/2010)
Có lẽ người dân Úc không có “phong tục tập quán cứ giúp đỡ nhau thì có quà cám ơn” cho nên mỗi năm cứ đến lễ Giáng Sinh, người ta lại phải nhắc nhở nhau về nghĩa cử này. Trong một xã hội ngày càng bị “tục hóa”, ý nghĩa của ngày lễ tôn giáo này có thể bị đánh mất, nhưng ít ra sứ điệp cốt lõi của ngày lễ vẫn còn đó: lễ Giáng Sinh vẫn mãi mãi là lễ của trao tặng. Lòng vị tha vẫn cao quý hơn tính ích kỷ. Thế giới vẫn tốt đẹp hơn khi con người biết trao tặng cho nhau.
Nhưng “tặng quà” là cả một nghệ thuật. Tặng quà trước hết là “nghĩ” đến người khác. Có nhiều hôm, mất cả mấy tiếng đồng hồ trong các thương xá, chúng tôi loay hoay mãi mà không biết phải mua những món quà nào vừa ý mình và cũng đẹp ý người nhận. Tôi nghĩ có lẽ nhiều người Úc cũng lúng túng như chúng tôi trong việc đi mua sắm quà tặng trong mùa Giáng Sinh. Lúng túng là phải, bởi vì có biết bao nhiêu “quà tặng” không được người nhận “trân quý” và xử dụng.
Mới đây, tuần báo “Wyndham Weekly” đã cho công bố kết quả của một cuộc thăm dò do viện “The Australia Institute” thực hiện, theo đó trong mùa Giáng Sinh năm ngoái, có khoảng 6 triệu người Úc nhận được một hay nhiều món quà  mà họ không bao giờ xử dụng hoặc sau đó mang đi cho.
Ông Richard Denniss, giám đốc điều hành của Viện “The Australia Institute” giải thích rằng những món quà “không mong mà phải nhận” là một sự phí phạm trị giá khoảng 798 triệu Úc kim về tiền bạc, thời giờ và công sức. Theo ông Denniss, “nền văn hóa bị bắt buộc phải cho” này chỉ làm giàu cho các công ty thương mại và những nơi cấp thẻ tín dụng là các ngân hàng lớn.
Cuộc thăm dò cũng cho thấy có đến một phần tư người dân Úc tặng quà cho những người mà họ không muốn tặng chút nào. Và một phần tư những người tặng quà bất đắc dĩ này không thể trả nợ tín dụng hàng tháng. Ông Denniss nói: “Khoảng một triệu người Úc phải chi tiền để mua quà mà lẽ ra họ không nên mua” (x. Cathnews 15/12/2010)
Tặng quà quả là cả một nghệ thuật. Không theo đúng quy luật của nghệ thuật này, thì người tặng quà phải “đau khổ” mà người nhận cũng chẳng sung sướng gì. Tờ báo địa phương của tôi, trong số ra tuần này, có đưa ra lời khuyên: “Hãy suy nghĩ cho kỹ trước khi tặng một con thú cưng.” Hội đồng thành phố kêu gọi người dân hãy cân nhắc trước khi mua tặng một con mèo hay một con chó để làm quà Giáng Sinh. Mỗi năm không biết bao nhiêu mèo chó được mua làm quà tặng cuối cùng đều được mang đến các trung tâm “thú vật mồ côi” của thị xã, khiến phải tốn thêm tiền đóng thuế của người dân để nuôi mấy con vật vô chủ và không được thừa nhận này. Một nghị viên của hội đồng thị xã nói rằng: “người ta mua tặng những con thú mà người nhận không nhứt thiết cần đến. Thế là những con thú ấy bị mang bỏ ngoài đường hay trong rừng; chúng sủa inh ỏi vì không được chú ý đến. Tiền đóng thuế của người dân lại phải chi ra để lo cho mấy con thú này đã đành, mà súc vật trong rừng cũng bị những con thú hoang này cắn xé.” (x. Express Advocate)
“Phải suy nghĩ cho kỹ” trước khi mua quà. Tôi nghĩ đây là một lời khuyên thực tế mà có lẽ ai cũng nên đón nhận mỗi khi “nghĩ” đến ai đó và muốn mua quà tặng cho họ. Muốn mua quà dĩ nhiên phải có tiền. Nhưng kinh nghiệm của cuộc sống lắm khi lại cho chúng ta thấy rằng không phải quà tặng càng đắt thì càng có giá trị. Một đứa bé có thể ngụp lặn và ngộp thở trong cái kho đồ chơi của nó mà vẫn cảm thấy không được yêu thương, nếu không cảm nhận được sự gần gũi, thân mật, vỗ về, âu yếm của cha mẹ nó. Một người vợ sẽ cảm thấy “trống rỗng” nếu không muốn nói là cay đắng khi nhận được một bó hoa của người chồng từ xa gởi về, nhưng biết rõ rằng ông đang “đi lại” với một người đàn bà khác. Một người mẹ đang sống trong một viện dưỡng lão có lẽ cũng chẳng thấy “ ấm lòng” hơn vì được người con năm thì mười họa mới ghé tạt qua để tặng cho một hộp chocolate. Chúng ta có thể kể ra vô số tình huống trong đó quà tặng, dù có đắt giá đến đâu, cũng không mang lại niềm vui đích thực cho người nhận. Tựu trung, như người ta vẫn thường nói, quà tặng mà không có người tặng là một quà tặng trơ trụi, trống rỗng. Giá trị của quà tặng không nằm trong quà tặng mà nơi “trái tim” mà con người muốn đặt vào đó. Nói cho cùng, trong ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, tặng quà đích thực chính là trao tặng chính mình.
Tiến sĩ Norman Vincent Peale, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “The power of positive thinking” (sức mạnh của tư tưởng tích cực) có kể một câu chuyện thật mà tôi cho là một trong những câu chuyện Giáng Sinh đẹp nhứt: Thành phố New York của Hoa kỳ chắc chắn phải là một trong những thành phố “hoành tráng” nhứt trong mùa Giáng Sinh. Trong những giờ phút cuối của buổi chiều chuẩn bị lễ Giáng Sinh, ai cũng vội vã đi sắm quà. Đặc biệt nhứt là tại đại lộ “Fifth Avenue”. Chẳng có nơi nào trên thế giới có thể sánh kịp với khu phố này về sự giàu sang, quyền lực và dư dật. Ở đây, tiền bạc xem ra không phải là vấn đề. Nếu có vấn đề thì vấn đề đó là: những người nhận quà giàu có đến độ thật khó tìm được một món quà hợp với họ hay qua đó mình có thể thực sự nói với họ: “Tôi yêu mến bạn!”
Một thiếu nữ tên là Ursula cũng gặp vấn đề như thế. Cô là một người Thụy sĩ đến Hoa kỳ để học Anh văn. Không có khả năng trang trải học phí, cô xin đến giúp việc cho một gia đình giàu có ở New York. Nhân mùa Giáng Sinh, cô cũng muốn tỏ lòng biết ơn với gia đình đang cưu mang mình. Nhưng với đồng lương khiêm tốn, cô thấy mình không tài nào mua được một món quà cho “xứng” với gia đình giàu có này.
Một ý nghĩ chợt đến với cô: “Quả thật, trong thành phố này, nhiều người giàu có hơn mình. Nhưng chắc chắn đâu đó cũng còn có những người nghèo hơn mình.” Nghĩ như thế cho nên vào ngày áp lễ Giáng Sinh, nhân được nghỉ việc, cô liền ra phố mua một cái áo dành cho một thơ nhi và dùng giấy gói quà bao lại. Sau đó, cô đến gặp người bảo vệ làm việc trong thương xá và hỏi cho biết đâu là khu khố nghèo nhứt của New York. Người bảo vệ liền nói đến khu Harlem hay khu “Lower East Side”. Nhưng mấy địa danh này xem ra chẳng có ý nghĩa gì đối với cô gái. Cô ra khỏi tiệm và đi dọc theo các con đường cho đến khi gặp một viên cảnh sát. Khi cô hỏi tên một con đường nghèo nhứt trong khu Harlem, viên cảnh sát liền lắc đầu nói: “Cô ơi, không có chỗ cho cô ở khu Harlem đâu.”
Gặp một phụ nữ, cô cũng hỏi đâu là khu phố của những người nghèo. Nhưng người đàn bà cũng lắc đầu rồi bỏ đi. Cuối cùng, cô gặp được một nhân viên của “Salvation Army” (một tổ chức từ thiện của Giáo hội tin lành). Người nhân viên này bảo cô chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa khi hết phiên trực ông sẽ hướng dẫn cô đi taxi với giá rẻ để đến nơi cô muốn. Người tài xế taxi tốt bụng đã chở người nhân viên của Salvation Army và Ursula đến con đường được xem là nghèo nhứt trong khu Harlem. Nhân viên từ thiện định mời cô cùng với ông đi bộ lên lầu ba của một chung cư để trao món quà cho gia đình nghèo. Nhưng cô gái lắc đầu giải thích rằng đây không phải là quà của cô, mà là của một người khác nhờ cô trao hộ. Nhân viên của Salvation Army đành lặng lẽ mang gói quà lên tận gia đình của người nghèo.
Khi đưa cô về lại đại lộ “Fifth Avenue” là nơi cô đang sống, người tài xế taxi nói rằng cô không phải trả tiền. Cô ngạc nhiên, nhưng ông giải thích: “Cô đừng lo. Đã có người trả rồi.” Nói xong, ông mỉm cười rồi cho xe chạy.
Buổi sáng ngày Giáng Sinh, Ursula thức dậy thật sớm. Cô dọn bàn và chuẩn bị mọi sự cho bữa ăn sáng của gia đình. Cô cám ơn mọi người vì đã tặng quà cho cô. Nhận ra thắc mắc trong ánh mắt của mọi người, cô kể lại những gì cô đã làm chiều hôm trước, chuyện cô gặp nhân viên của tổ chức Salvation Army và người tài xế taxi tốt bụng, rồi nói: “Tôi cố gắng nhân danh quý vị để làm một nghĩa cử. Đó chính là món quà Giáng Sinh tôi xin được dành cho quý vị.”
Tiến sĩ Norman Vincent Peale cho biết: sở dĩ ông biết rõ câu chuyện là bởi vì gia đình ông chính là nơi mà cô gái người Thụy sĩ trên đây đã giúp việc. Ông kết luận: “Cô đã trao ban một điều cao cả: đó là một món quà từ trái tim của cô, một hành động tử tế được thực thi trong danh nghĩa của chúng tôi.
Thật là lạ lùng, phải không? Một cô gái Thụy sĩ nhút nhát, đơn độc trong một đô thị lạnh lùng. Có thể bạn cho rằng điều người thiếu nữ này làm chẳng ảnh hưởng đến bất kỳ ai. Kỳ thực, khi cố gắng trao ban tình yêu, cô đã mang tinh thần đích thực của Lễ Giáng Sinh vào trong cuộc sống của chúng tôi: đó là tinh thần trao ban vô vị lợi. Đó là bí quyết của Ursula và cô đã chia sẻ với tất cả chúng tôi.” (Stories for the Heart, compiled by Alice Gray, nxb Multnomah Books, Oregon, Hoa kỳ, trg 81-85)
Nếu phải “suy nghĩ cho kỹ” trước khi mua quà và tặng quà Giáng Sinh, thì có lẽ ý nghĩ của tôi trước tiên hướng đến những người mà tôi sẽ tặng quà. Tôi “nghĩ” đến người nhận quà hơn là món quà tôi sẽ trao tặng. Nếu như người ta thường nói “bác ái bắt đầu từ trong nhà”, thì những người tôi phải nghĩ đến trước tiên là những người thân của tôi. Trong xã hội dư dật này, có lẽ họ không cần những món quà “vật chất” của tôi cho bằng “trái tim” của tôi. Món quà tôi cần trao tặng cho họ không phải là những gì mà tiền bạc có thể mua được: họ cần tôi chấp nhận họ với những bất toàn của họ, họ cần sự hiện diện yêu thương, những cử chỉ thân ái, những lời nói vỗ về, khuyến khích, nâng đỡ; họ cần một chút thì giờ của tôi; họ cần một chút “gương sáng” của tôi; họ cần một chút “chịu đựng” của tôi. Và nhứt là và trên hết mọi sự, họ cần sự tha thứ của tôi, bởi vì tha thứ là trao ban đến 70 lần 7. Trong đa số các ngôn ngữ Tây phương, từ chỉ sự tha thứ cũng có nghĩa là “cho nhiều hơn”.
Nhưng để cho sự “trao tặng” của tôi được vô vị lợi, tôi cần nghĩ đến những người không được hay ít được “nghĩ” đến: đó là những người nghèo khổ, các bệnh nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Họ cần sự giúp đỡ thiết thực của tôi, nhứt là trong mùa Giáng Sinh này.
Trao tặng từ trái tim và một cách vô vị lợi, tôi nhận thấy rằng người được nhận lãnh nhiều hơn cả lại là chính tôi, bởi vì mỗi một nghĩa cử tôi làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn đến đâu, cũng làm cho nhân cách của tôi được lớn thêm.
Cho nên, có thể nói rằng: khi trao tặng cho người khác bằng tất cả tấm lòng, lại chính là lúc tôi tự “sắm” cho mình một món quà Giáng sinh vừa ý nhất.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét