Chu Thập
Giáng sinh 2010

Ở
trong nước dưới thời xã hội chủ nghĩa hiện nay, “tặng quà” đã trở thành một thứ
“phong tục”. Nói theo kiểu nói dân gian, việc gì cũng phải có thủ tục “đầu
tiên”. Tổ chức “Minh Bạch Quốc Tế” vừa cho công bố một bản báo cáo về tình hình
tham nhũng tại Việt nam. Báo “Đời sống và Pháp Luật” trong nước, số ra ngày 16
tháng 12, cũng trích dẫn báo cáo của tổ chức này như sau: tham nhũng tập trung
vào các lãnh vực như cảnh sát 82 %, giáo dục 67%, cán bộ công chức nhà nước
61%, tư pháp 52%. Để gọi là làm sáng tỏ báo cáo này, báo Đời sống và Pháp luật
đã phỏng vấn ông Lê Mạnh Luân, phó văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống Tham nhũng
Trung ương. Ông này trút hết “tội lỗi” lên đầu người dân, bởi vì, theo ông, người
dân “cố tình đưa tiền chạy chọt” và bởi vì “khó phân biệt quà biếu với hối lộ”.
Ông quan này nói chuyện huề trớt như sau: “Tham
nhũng nước nào cũng có, nhưng ở các nước, công chức hưởng lương 40 ngàn USD thì
việc chống tham nhũng không đến nỗi khó, nhưng ở ta lương công chức trung bình
vài triệu đồng/tháng thì khó ổn định cuộc sống nên dễ sa ngã. Thêm vào đó luật
của chúng ta cũng chưa rõ ràng, ý thức tôn trọng pháp luật của người dân còn hạn
chế. Chúng ta còn có những phong tục tập quán cứ giúp đỡ nhau thì có quà cám
ơn, ranh giới khó phân biệt đâu là quà và đâu là hối lộ.” (x.Việt báo
online 17/12/2010)
Có
lẽ người dân Úc không có “phong tục tập
quán cứ giúp đỡ nhau thì có quà cám ơn” cho nên mỗi năm cứ đến lễ Giáng
Sinh, người ta lại phải nhắc nhở nhau về nghĩa cử này. Trong một xã hội ngày
càng bị “tục hóa”, ý nghĩa của ngày lễ tôn giáo này có thể bị đánh mất, nhưng
ít ra sứ điệp cốt lõi của ngày lễ vẫn còn đó: lễ Giáng Sinh vẫn mãi mãi là lễ của
trao tặng. Lòng vị tha vẫn cao quý hơn tính ích kỷ. Thế giới vẫn tốt đẹp hơn
khi con người biết trao tặng cho nhau.
Nhưng
“tặng quà” là cả một nghệ thuật. Tặng quà trước hết là “nghĩ” đến người khác.
Có nhiều hôm, mất cả mấy tiếng đồng hồ trong các thương xá, chúng tôi loay hoay
mãi mà không biết phải mua những món quà nào vừa ý mình và cũng đẹp ý người nhận.
Tôi nghĩ có lẽ nhiều người Úc cũng lúng túng như chúng tôi trong việc đi mua sắm
quà tặng trong mùa Giáng Sinh. Lúng túng là phải, bởi vì có biết bao nhiêu “quà
tặng” không được người nhận “trân quý” và xử dụng.
Mới
đây, tuần báo “Wyndham Weekly” đã cho công bố kết quả của một cuộc thăm dò do
viện “The Australia Institute” thực hiện, theo đó trong mùa Giáng Sinh năm ngoái,
có khoảng 6 triệu người Úc nhận được một hay nhiều món quà mà họ không bao giờ xử dụng hoặc sau đó mang
đi cho.
Ông
Richard Denniss, giám đốc điều hành của Viện “The Australia Institute” giải
thích rằng những món quà “không mong mà phải nhận” là một sự phí phạm trị giá
khoảng 798 triệu Úc kim về tiền bạc, thời giờ và công sức. Theo ông Denniss, “nền
văn hóa bị bắt buộc phải cho” này chỉ làm giàu cho các công ty thương mại và những
nơi cấp thẻ tín dụng là các ngân hàng lớn.
Cuộc
thăm dò cũng cho thấy có đến một phần tư người dân Úc tặng quà cho những người
mà họ không muốn tặng chút nào. Và một phần tư những người tặng quà bất đắc dĩ
này không thể trả nợ tín dụng hàng tháng. Ông Denniss nói: “Khoảng một triệu người Úc phải chi tiền để mua quà mà lẽ ra họ không
nên mua” (x. Cathnews 15/12/2010)
Tặng
quà quả là cả một nghệ thuật. Không theo đúng quy luật của nghệ thuật này, thì
người tặng quà phải “đau khổ” mà người nhận cũng chẳng sung sướng gì. Tờ báo địa
phương của tôi, trong số ra tuần này, có đưa ra lời khuyên: “Hãy suy nghĩ cho kỹ
trước khi tặng một con thú cưng.” Hội đồng thành phố kêu gọi người dân hãy cân
nhắc trước khi mua tặng một con mèo hay một con chó để làm quà Giáng Sinh. Mỗi
năm không biết bao nhiêu mèo chó được mua làm quà tặng cuối cùng đều được mang
đến các trung tâm “thú vật mồ côi” của thị xã, khiến phải tốn thêm tiền đóng
thuế của người dân để nuôi mấy con vật vô chủ và không được thừa nhận này. Một
nghị viên của hội đồng thị xã nói rằng: “người
ta mua tặng những con thú mà người nhận không nhứt thiết cần đến. Thế là những
con thú ấy bị mang bỏ ngoài đường hay trong rừng; chúng sủa inh ỏi vì không được
chú ý đến. Tiền đóng thuế của người dân lại phải chi ra để lo cho mấy con thú
này đã đành, mà súc vật trong rừng cũng bị những con thú hoang này cắn xé.”
(x. Express Advocate)
“Phải
suy nghĩ cho kỹ” trước khi mua quà. Tôi nghĩ đây là một lời khuyên thực tế mà
có lẽ ai cũng nên đón nhận mỗi khi “nghĩ” đến ai đó và muốn mua quà tặng cho họ.
Muốn mua quà dĩ nhiên phải có tiền. Nhưng kinh nghiệm của cuộc sống lắm khi lại
cho chúng ta thấy rằng không phải quà tặng càng đắt thì càng có giá trị. Một đứa
bé có thể ngụp lặn và ngộp thở trong cái kho đồ chơi của nó mà vẫn cảm thấy
không được yêu thương, nếu không cảm nhận được sự gần gũi, thân mật, vỗ về, âu
yếm của cha mẹ nó. Một người vợ sẽ cảm thấy “trống rỗng” nếu không muốn nói là
cay đắng khi nhận được một bó hoa của người chồng từ xa gởi về, nhưng biết rõ rằng
ông đang “đi lại” với một người đàn bà khác. Một người mẹ đang sống trong một
viện dưỡng lão có lẽ cũng chẳng thấy “ ấm lòng” hơn vì được người con năm thì
mười họa mới ghé tạt qua để tặng cho một hộp chocolate. Chúng ta có thể kể ra
vô số tình huống trong đó quà tặng, dù có đắt giá đến đâu, cũng không mang lại
niềm vui đích thực cho người nhận. Tựu trung, như người ta vẫn thường nói, quà
tặng mà không có người tặng là một quà tặng trơ trụi, trống rỗng. Giá trị của
quà tặng không nằm trong quà tặng mà nơi “trái tim” mà con người muốn đặt vào
đó. Nói cho cùng, trong ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, tặng quà đích thực chính là trao
tặng chính mình.
Tiến
sĩ Norman Vincent Peale, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “The power of positive thinking” (sức mạnh của tư tưởng tích cực) có
kể một câu chuyện thật mà tôi cho là một trong những câu chuyện Giáng Sinh đẹp
nhứt: Thành phố New York của Hoa kỳ chắc chắn phải là một trong những thành phố
“hoành tráng” nhứt trong mùa Giáng Sinh. Trong những giờ phút cuối của buổi chiều
chuẩn bị lễ Giáng Sinh, ai cũng vội vã đi sắm quà. Đặc biệt nhứt là tại đại lộ
“Fifth Avenue”. Chẳng có nơi nào trên thế giới có thể sánh kịp với khu phố này
về sự giàu sang, quyền lực và dư dật. Ở đây, tiền bạc xem ra không phải là vấn
đề. Nếu có vấn đề thì vấn đề đó là: những người nhận quà giàu có đến độ thật
khó tìm được một món quà hợp với họ hay qua đó mình có thể thực sự nói với họ:
“Tôi yêu mến bạn!”
Một
thiếu nữ tên là Ursula cũng gặp vấn đề như thế. Cô là một người Thụy sĩ đến Hoa
kỳ để học Anh văn. Không có khả năng trang trải học phí, cô xin đến giúp việc
cho một gia đình giàu có ở New York. Nhân mùa Giáng Sinh, cô cũng muốn tỏ lòng
biết ơn với gia đình đang cưu mang mình. Nhưng với đồng lương khiêm tốn, cô thấy
mình không tài nào mua được một món quà cho “xứng” với gia đình giàu có này.
Một
ý nghĩ chợt đến với cô: “Quả thật, trong thành phố này, nhiều người giàu có hơn
mình. Nhưng chắc chắn đâu đó cũng còn có những người nghèo hơn mình.” Nghĩ như
thế cho nên vào ngày áp lễ Giáng Sinh, nhân được nghỉ việc, cô liền ra phố mua
một cái áo dành cho một thơ nhi và dùng giấy gói quà bao lại. Sau đó, cô đến gặp
người bảo vệ làm việc trong thương xá và hỏi cho biết đâu là khu khố nghèo nhứt
của New York. Người bảo vệ liền nói đến khu Harlem hay khu “Lower East Side”.
Nhưng mấy địa danh này xem ra chẳng có ý nghĩa gì đối với cô gái. Cô ra khỏi tiệm
và đi dọc theo các con đường cho đến khi gặp một viên cảnh sát. Khi cô hỏi tên
một con đường nghèo nhứt trong khu Harlem, viên cảnh sát liền lắc đầu nói: “Cô
ơi, không có chỗ cho cô ở khu Harlem đâu.”
Gặp
một phụ nữ, cô cũng hỏi đâu là khu phố của những người nghèo. Nhưng người đàn
bà cũng lắc đầu rồi bỏ đi. Cuối cùng, cô gặp được một nhân viên của “Salvation
Army” (một tổ chức từ thiện của Giáo hội tin lành). Người nhân viên này bảo cô
chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa khi hết phiên trực ông sẽ hướng dẫn cô đi taxi với
giá rẻ để đến nơi cô muốn. Người tài xế taxi tốt bụng đã chở người nhân viên của
Salvation Army và Ursula đến con đường được xem là nghèo nhứt trong khu Harlem.
Nhân viên từ thiện định mời cô cùng với ông đi bộ lên lầu ba của một chung cư để
trao món quà cho gia đình nghèo. Nhưng cô gái lắc đầu giải thích rằng đây không
phải là quà của cô, mà là của một người khác nhờ cô trao hộ. Nhân viên của
Salvation Army đành lặng lẽ mang gói quà lên tận gia đình của người nghèo.
Khi
đưa cô về lại đại lộ “Fifth Avenue” là nơi cô đang sống, người tài xế taxi nói
rằng cô không phải trả tiền. Cô ngạc nhiên, nhưng ông giải thích: “Cô đừng lo.
Đã có người trả rồi.” Nói xong, ông mỉm cười rồi cho xe chạy.
Buổi
sáng ngày Giáng Sinh, Ursula thức dậy thật sớm. Cô dọn bàn và chuẩn bị mọi sự
cho bữa ăn sáng của gia đình. Cô cám ơn mọi người vì đã tặng quà cho cô. Nhận
ra thắc mắc trong ánh mắt của mọi người, cô kể lại những gì cô đã làm chiều hôm
trước, chuyện cô gặp nhân viên của tổ chức Salvation Army và người tài xế taxi
tốt bụng, rồi nói: “Tôi cố gắng nhân danh quý vị để làm một nghĩa cử. Đó chính
là món quà Giáng Sinh tôi xin được dành cho quý vị.”
Tiến
sĩ Norman Vincent Peale cho biết: sở dĩ ông biết rõ câu chuyện là bởi vì gia
đình ông chính là nơi mà cô gái người Thụy sĩ trên đây đã giúp việc. Ông kết luận:
“Cô đã trao ban một điều cao cả: đó là một
món quà từ trái tim của cô, một hành động tử tế được thực thi trong danh nghĩa
của chúng tôi.
Thật là lạ lùng, phải
không? Một cô gái Thụy sĩ nhút nhát, đơn độc trong một đô thị lạnh lùng. Có thể
bạn cho rằng điều người thiếu nữ này làm chẳng ảnh hưởng đến bất kỳ ai. Kỳ thực,
khi cố gắng trao ban tình yêu, cô đã mang tinh thần đích thực của Lễ Giáng Sinh
vào trong cuộc sống của chúng tôi: đó là tinh thần trao ban vô vị lợi. Đó là bí
quyết của Ursula và cô đã chia sẻ với tất cả chúng tôi.” (Stories
for the Heart, compiled by Alice Gray, nxb Multnomah Books, Oregon, Hoa kỳ, trg
81-85)
Nếu
phải “suy nghĩ cho kỹ” trước khi mua quà và tặng quà Giáng Sinh, thì có lẽ ý
nghĩ của tôi trước tiên hướng đến những người mà tôi sẽ tặng quà. Tôi “nghĩ” đến
người nhận quà hơn là món quà tôi sẽ trao tặng. Nếu như người ta thường nói
“bác ái bắt đầu từ trong nhà”, thì những người tôi phải nghĩ đến trước tiên là
những người thân của tôi. Trong xã hội dư dật này, có lẽ họ không cần những món
quà “vật chất” của tôi cho bằng “trái tim” của tôi. Món quà tôi cần trao tặng
cho họ không phải là những gì mà tiền bạc có thể mua được: họ cần tôi chấp nhận
họ với những bất toàn của họ, họ cần sự hiện diện yêu thương, những cử chỉ thân
ái, những lời nói vỗ về, khuyến khích, nâng đỡ; họ cần một chút thì giờ của
tôi; họ cần một chút “gương sáng” của tôi; họ cần một chút “chịu đựng” của tôi.
Và nhứt là và trên hết mọi sự, họ cần sự tha thứ của tôi, bởi vì tha thứ là
trao ban đến 70 lần 7. Trong đa số các ngôn ngữ Tây phương, từ chỉ sự tha thứ
cũng có nghĩa là “cho nhiều hơn”.
Nhưng
để cho sự “trao tặng” của tôi được vô vị lợi, tôi cần nghĩ đến những người
không được hay ít được “nghĩ” đến: đó là những người nghèo khổ, các bệnh nhân,
những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Họ cần sự giúp đỡ thiết thực của tôi, nhứt
là trong mùa Giáng Sinh này.
Trao
tặng từ trái tim và một cách vô vị lợi, tôi nhận thấy rằng người được nhận lãnh
nhiều hơn cả lại là chính tôi, bởi vì mỗi một nghĩa cử tôi làm cho tha nhân, dù
nhỏ mọn đến đâu, cũng làm cho nhân cách của tôi được lớn thêm.
Cho
nên, có thể nói rằng: khi trao tặng cho người khác bằng tất cả tấm lòng, lại
chính là lúc tôi tự “sắm” cho mình một món quà Giáng sinh vừa ý nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét