Chu Thập
Noel 2014
Mùa Giáng Sinh năm nào, gia đình tôi cũng bắt chước người Úc tổ chức họp mặt
và tặng quà cho nhau. Nhưng năm nay, nhà tôi làm một cuộc cách mạng khi đưa ra
sáng kiến: thay vì dùng tiền để mua sắm quà tặng cho nhau, hãy trao tặng cho một
tổ chức từ thiện nào đó. Đề nghị được mọi thành viên của gia đình tán thưởng: vừa
khỏi phải bù đầu bứt tóc khi lang thang mấy ngày liền để tìm cho ra một món quà
vừa ý người thân, vừa có được niềm vui vì làm việc thiện. Tôi nghĩ đến những
người mà chỉ cần 25 đô trao tặng cho “Sáng hội Fred Hollows Foundation” cũng đủ
để được sáng mắt. Tôi nghĩ đến những ca phẫu thuật ở những nước nghèo mà chỉ cần
một cú điện thoại từ Úc gọi đến cho Hội Y Sĩ Không Biên Giới (Médecins sans
frontières) cũng đủ để giúp thực hiện một cách tốt đẹp. Tôi nghĩ đến không biết
bao nhiêu tổ chức từ thiện đang cần một chút chia sẻ của tôi trong mùa Giáng
Sinh này để xoa dịu nỗi đau vì túng đói của không biết bao nhiêu người xung
quanh tôi.
Giáng Sinh ngày càng bị thương mại hóa. Ý nghĩa tôn giáo của ngày lễ ngày
càng bị lu mờ. Nhân vật lịch sử Giêsu mà các tín đồ Kitô Giáo tin nhận như
Thiên Chúa nhập thể làm người dường như đã nhường chỗ cho Ông Già Noel, Cây
Thông Giáng Sinh, Ánh Đèn Mầu hoặc thậm chí mấy con sơn dương Bắc Âu. Nhiều người
thích đến các lễ hội Giáng Sinh hơn là vào các các giáo đường để thờ phượng.
Mùa Giáng Sinh, để tránh mầu sắc tôn giáo, chỉ còn là mùa nghỉ lễ hoặc mùa gởi
thiệp chúc mừng nhau (Greeting season).
Nhưng dù cho lễ Giáng Sinh có bị tục hóa đến đâu, một tín hữu Kitô như tôi
cũng không hề cảm thấy nao núng. Với tôi, như Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo
tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng, đã nói, “tôn giáo tốt nhứt là tôn giáo làm cho bạn
trở thành một người tốt hơn”, cái tốt tủy của tinh thần Giáng Sinh là sự
chia sẻ và trao tặng, dù cho ngay cả Lễ Giáng Sinh cũng không còn được gọi là
“Giáng Sinh” đi nữa, vẫn mãi mãi là điều làm cho tôi thành một người tốt hơn.
Bao lâu tinh thần chia sẻ và trao tặng chưa chết thì lễ Giáng Sinh vẫn còn đó.
Cái cốt lõi và nét đẹp của Giáng Sinh vẫn mãi mãi còn đó. Mãi mãi Giáng
Sinh vẫn tiếp tục mang lại nguồn cảm hứng để làm tuôn trào những áng văn đẹp nhứt
trong lịch sử nhân loại. Mãi mãi tinh thần Giáng Sinh vẫn là tình thương vô vị
lợi, sự tha thứ, lòng quảng đại, sự chia sẻ. Trong những câu chuyện Giáng Sinh
hay nhứt được thu thập trong suốt dòng lịch sử nhân loại, tôi thích truyền thuyết
về “đóa hồng Giáng Sinh”. Theo truyền thuyết, vào một đêm tháng 12 giá lạnh, mọi
người đều đi tìm Đấng Cứu Thế và dâng kính cho Ngài đủ loại quà tặng. Ba nhà đạo
sĩ từ Đông Phương mang đến những món quà được xem là quý giá nhứt vào thời đó
là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cũng vào lúc đó, có một cô gái mục đồng tên là
Madelon đã nhìn thấy ba nhà đạo sĩ đang dừng chân trước hang đá nơi Hài Nhi
Giêsu sinh hạ. Tuy nhiên, vì nghèo đến độ chẳng có gì để mang đến dâng tặng cho
Hài Nhi, cô đã bật khóc thành tiếng khi nhìn thấy những món quà quý giá của ba
nhà đạo sĩ. Trước đó, cô đã rảo bước qua các cánh đồng để tìm cho được vài cánh
hoa, nhưng làm gì có hoa nở giữa mùa Đông giá rét.
Cô gái mục đồng không hề biết rằng nhứt cử nhứt động của mình đều được một
vị thiên thần để mắt theo dõi. Cảm thương trước cảnh cô gái nghèo đang ngồi bệt
trên đất để khóc vì sự nghèo cùng và bất lực của mình, sứ thần của Chúa đã nhẹ
nhàng bóc gỡ từng lớp tuyết dưới chân cô. Và dĩ nhiên, phép lạ đã xảy ra: từ dưới
chân cô, những giọt nước mắt đã biến
thành một đóa hồng xinh đẹp. Sứ thần rỉ tai cô gái: đóa hồng này là món quà vô
giá vì nó tinh tuyền và được kết tinh từ tình yêu. Cô gái mục đồng ngạc nhiên
và vui mừng khi nghe những lời này. Cô nhặt đóa hồng lên, nâng niu trên bàn tay
và vội vã chạy đến dâng tặng cho Hài Nhi. Kể từ đó, đóa hồng Giáng Sinh đã được
xem như biểu tượng của tình yêu và niềm hy vọng.
Thật ra, đâu chỉ có hoa hồng mới là biểu tượng của tình yêu và niềm hy vọng.
Và đâu chỉ có đóa hồng Giáng Sinh mới có giá trị biểu trưng như thế. Ở đâu và
thời nào, trong bất cứ nền văn hóa nào, hoa nào cũng là tiếng nói thầm lặng qua
đó con người bày tỏ những cảm xúc và tình cảm cao quý nhứt của mình.
Nhìn đoàn người lũ lượt kéo đến Quảng trường Martin trong những ngày vừa
qua để đặt vòng hoa tưởng niệm và thương tiếc hai nạn nhân vô tội của vụ khủng
bố do “ông đạo” Man Haron Monis thực hiện, tôi đã nghe được ngôn ngữ thinh lặng
ấy của hoa. Từ đương kim thủ tướng đến cựu thủ tướng, từ các chính khách đến
các nhà lãnh đạo tôn giáo, từ người lớn đến trẻ con, bất luận sắc tộc, ngôn ngữ,
màu da và tôn giáo...tất cả mọi người đều nói cùng một ngôn ngữ và bày tỏ cùng
một cảm xúc khi đặt những cành hoa xuống Quảng trường Martin. Nếu phải đi tìm bức
ảnh đẹp nhứt và ý nghĩa nhứt trong năm 2014, tôi nghĩ không ai mà không bầu chọn
bức ảnh này. Từ máu và nước mắt trong quán cà phê Lindt ở Sydney, những cánh
hoa của hy vọng đã nở ra. Ở nơi bận rộn nhứt của Sydney, mấy ngày qua, tôi
không còn thấy cảnh người ta vội vã đi với cái iphone như chỗ không người. Trước
một biển hoa, người ta đứng bên nhau, không ngần ngại chia sẻ tâm tình trào
dâng qua những giọt lệ trước bao người xa lạ. Ngay nơi này tôi được xác tín rằng,
bao lâu ích kỷ và thù hận không làm cho trái tim con người hóa đá, bao lâu nỗi
đau của người xung quanh không làm cho con người trở nên vô cảm, bao lâu niềm
hy vọng vẫn còn cố gắng vươn lên trong lòng người, thì thế giới này vẫn mãi mãi
còn là một nơi đáng sống.
Theo dõi cuộc khủng bố tại Quảng trường Martin, tôi để ý đến một chi tiết đầy
nghịch lý. Trên một trong những cánh cửa kiếng của tiệm cà phê Lindt nhìn ra Quảng
trường Martin, người ta thấy những bàn tay với những ngón tay run rẩy của hai con
tin mà tên khủng bố bắt phải đưa lên. Đôi mắt của họ như nhắm nghiền lại. Dường
như họ đang lâm râm khấn vái và cầu nguyện. Bên cạnh khuôn mặt đầy hoảng sợ ấy
người ta vẫn đọc được rõ ràng lời cầu chúc “Merry Christmas” mà tôi nghĩ chính viên
quản lý Tori Johnson của tiệm cà phê đã cho dán lên tấm kính nhân mùa Giáng
Sinh này. Anh không chỉ viết lời cầu chúc ấy bằng giấy mực. Anh đã viết bằng
chính máu và mạng sống của anh khi đã can đảm vật lộn với tên khủng bố để cho
nhiều con tin khác được chạy thoát. Cùng với anh, nữ trạng sư Katrina Dawson,
38 tuổi, cũng đã viết lên lời cầu chúc Giáng Sinh một cách hào hùng khi dùng tấm
thân của mình để đỡ đạn cho một người phụ nữ khác đang mang thai. Với tôi, hành
động hy sinh cao cả của Tori Johnson và Katrina Dawson là lời cầu chúc Giáng
Sinh “Merry Christmas” đẹp nhứt và ý nghĩa nhứt.
Từ đáy thẳm của hận thù và đớn đau vẫn còn có những người cố gắng, bằng cách
thế riêng của mình, thốt lên lời cầu chúc “Merry Christmas” của can đảm, hy
sinh và hy vọng. Những bó hoa phủ đầy Quảng trường Martin trong những ngày này
chắc chắn cũng chỉ chuyên chở cùng một sứ điệp “Merry Christmas” ấy.
Từ thảm hoa trên Quảng trường Martin, tôi cũng đọc được một khẩu hiệu khác
đầy ý nghĩa là “Peace on Earth” (Hòa bình dưới thế). Với những người quen thuộc
với sứ điệp trọng tâm của mùa Giáng Sinh, thì khẩu hiệu này là vế sau của câu:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Theo
Kinh Thánh Kitô giáo, đó là câu hát của các thiên thần mà nhiều người đã nghe
được từ trên không trung trong đêm Giáng Sinh. Về sau có lẽ nhiều người chỉ chú
trọng đến vế đầu, tức “vinh danh Thiên Chúa trên trời”. Và đó chính là đầu mối
của không biết bao nhiêu khốn khổ mà nhân loại phải gánh chịu. Trong suốt dòng
lịch sử nhân loại, các cuộc chiến tranh tôn giáo đã cho thấy rằng con người thường
nhân danh Thiên Chúa và tôn vinh Ngài bằng cách chém giết nhau. Đúng hơn, con
người tự tạo ra một Thiên Chúa cho riêng mình và bắt người khác phải tôn thờ
Thiên Chúa ấy. Có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu Thiên Chúa và con người
nhân danh Thiên Chúa của mình để loại trừ người khác.
Có lẽ để đối lại với khẩu hiệu được viết bằng tiếng Á Rập “chỉ có một Thiên
Chúa chân thực và độc nhứt và Mohammad là tiên tri của Ngài” mà tên khủng bố
Monis đã giương lên trong quán cà phê Lindt chăng mà một số người đã trương lên
biểu ngữ “Hòa bình dưới thế”. Thật vậy, làm sao có “hòa bình dưới thế” khi con
người nhân danh Thiên Chúa để xem người khác như người “ngoại đạo” và sát hại họ.
Nhưng trái lại, phải chăng khi con người biết tôn trọng những khác biệt của người
khác, biết sống chung hòa bình với người khác thì đó không phải là lúc họ “vinh
danh Thiên Chúa” sao.
Tôi mới đọc được 10 bí quyết hạnh phúc hàng đầu của Đức Phanxicô, nhà lãnh
đạo tinh thần của hơn một tỷ người công giáo trên khắp thế giới. Nhà lãnh đạo
tôn giáo này đã nói lên 10 bí quyết hạnh phúc của ngài trong một cuộc phỏng vấn
dành cho một tuần báo xuất bản tại Á Căn Đình dạo tháng 7 vừa qua. Trong 10 bí
quyết ấy, tôi chú ý đến điều ngài nói: “Đừng bắt người khác vào đạo của mình,
hãy tôn trọng tín ngưỡng của họ”.
Một lời tuyên bố như thế được thốt lên từ miệng của một nhà lãnh đạo của Giáo hội
công giáo chẳng có gì đáng gây ngạc nhiên cả. Thời đại này, tín đồ của tôn giáo
nào mà chẳng nói lên được điều đó. Có khác chăng và đáng chú ý chăng là bởi Đức
Phanxicô đã xem đây như một bí quyết để sống hạnh phúc. Phải chăng vị giáo
hoàng này chẳng muốn nói rằng một trong những bí quyết của hạnh phúc đích thực
là chấp nhận, tôn trọng, yêu thương và cảm thông với người khác.
Giáng Sinh vẫn mãi mãi là mùa của trao tặng. Trao tặng một chút cải cải vật
chất, nhứt là cho những người đang túng thiếu, là điều đương nhiên không thể
thiếu nếu muốn sống một mùa Giáng Sinh có ý nghĩa. Nhưng như một câu ngạn ngữ
quen thuộc muốn nhắc nhở, “một quà tặng không có người tặng là một quà
tặng trống rỗng”. Trao tặng thiết yếu là trao tặng chính mình. Trao tặng
là gởi gấm thái độ chấp nhận, tôn trọng, yêu thương, vị tha, cảm thông và tha
thứ. Trao tặng như thế là chỉ mong có được “hòa bình dưới thế” cho mình và cho
người khác. Lời cầu chúc Giáng Sinh “Merry Christmas” sẽ chỉ còn là một công thức
sáo mòn và trống rỗng nếu không chuyên chở những tâm tình cao quý ấy.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét