Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Yêu là chấp nhận khác biệt và bất toàn


Chu Thập
5/12/14



Cuối tuần rồi, tôi được  tham dự một lễ cưới thật...dễ thương. Dễ thương vì nghi lễ diễn ra ngoài trời, trong bầu khí đơn sơ, thân tình, trên một ngọn đồi nhìn xuống vịnh Sydney. Dễ thương là vì cô dâu không đội “voan”, không mặc chiếc áo cưới dài lê thê lếch thếch, không trang điểm lòe loẹt và có lẽ cũng chẳng phải làm một kiểu tóc đặc biệt nào cả. Người tham dự muốn đứng đâu cũng được, ăn mặc thế nào cũng xong và thơ nhi thì tha hồ chạy qua chạy lại và được “tự do ngôn luận” nói cười. Nhưng có lẽ dễ thương nhứt là lúc trao đổi lời hứa hôn, chú r đã bật khóc một cách ngon lành.
Tôi nghĩ một số người Việt có mặt trong hôn lễ hôm đó không thể không liên tưởng đến hình ảnh của đôi đũa lệch khi nhìn cặp uyên ương. Chú rể là một người Úc cao lớn, dềnh dàng. Mỗi lần muốn hôn cô dâu, anh phải uốn cong người một cách thật khổ sở, nhưng dĩ nhiên cũng thật dễ thương. Cô dâu là một cô gái Việt Nam nhỏ bé, mảnh khảnh. Nhưng theo phiếu lý lịch mà tôi được biết, cô dâu là một tiến sĩ khoa học, hiện đang có một công việc làm tốt. Chú rể chỉ mới tốt nghiệp đại học, hiện chỉ làm việc bán phần.
Tôi thích diễn tiến của nghi lễ “dân sự” do một phụ nữ người Úc cử hành. Chắc đã phải nghiên cứu “hồ sơ” của đôi tân hôn rất kỹ, cho nên trước khi hai người trao đổi hôn ước và đeo nhẫn cho nhau, vị chủ hôn này đã đưa mọi người hiện diện phải rưng rưng cảm động và cười chảy nước mắt theo từng diễn tiến của một cuộc tình mà tôi nghĩ, nếu được lắng nghe, có lẽ các nhà làm phim ở Hollywood hẳn phải tìm cách đưa lên màn ảnh thôi. Từ lúc quen nhau qua Internet đến lúc góp gạo nấu cơm chung và “sống thử” trước khi chính thức trao nhẫn cho nhau, đôi bạn trẻ lúc nào cũng “tương kính như tân” và luôn cố gắng để thích nghi với nhau vì vô số những khác biệt giữa hai người. Tất cả câu chuyện tình của họ là những chuyện nhỏ, rất nhỏ hàng ngày. Nhưng tất cả nói lên sự cần nhau để hóa giải những khác biệt và bất toàn của nhau. Tôi vẫn nhớ mãi câu nói ví von của chú rể khi thề thốt với cô dâu: “Anh là chiếc xe còn em là đầu máy” (I’m the Car, you are the Engine). Chiếc xe có mẫu mã “hoành tráng” cách mấy, nhưng nếu không có “đầu máy” thì làm sao chạy được. Còn đầu máy, dù có tối tân và tinh vi đến đâu, nếu không có “bánh xe” thì cũng dậm chân tại chỗ thôi. Nhưng có một chi tiết trong cung cách hầu như tương phản nhau của cặp tân hôn được vị chủ hôn nhấn mạnh là: chú rể là một chàng thanh niên vụng về, “luộm thuộm” (messy) nhưng nhiệt tình và tốt bụng trong khi cô dâu là người mực thước, chín chắn, luôn suy tính như một khoa học gia, nhưng lúc nào cũng tế nhị trong cách đối nhân xử thế.
Tôi đã tham dự không biết bao nhiêu lễ cưới, phần lớn được cử hành theo nghi lễ tôn giáo. Tôi đã nghe không biết bao nhiêu “bài giảng” của các vị chức sắc tôn giáo. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên, tôi đã cố gắng “nuốt” từng lời trong bài chia sẻ và nhắn nhủ của vị chủ hôn cũng như những lời thề thốt vượt ra ngoài khuôn phép và công thức chiếu lệ của đôi tân hôn. Tất cả đều qui về một chủ điểm là những khác biệt và bất toàn của con người. Hôn nhân hay tình yêu là một cuộc hành trình để chấp nhận và sống với những bất toàn và thiếu sót của người mình yêu.
Từ trên đồi nhìn xuống vịnh Sydney, ngắm các thuyền bè qua lại trên sóng nước, tôi nghĩ miên man về cuộc hành trình ấy. Xét cho cùng, bí quyết của hạnh phúc chính là biết chấp nhận và sống với những bất toàn của mình cũng như của tha nhân.
Trên báo mạng “Psychologytoday”, tôi  đọc được ý tưởng ấy trong một bài viết của giáo sư Arthur Dobrin, hiện đang giảng dạy về môn đạo đức tại đại học Hofstra, Hoa Kỳ. Tác giả ghi lại một giai thoại về nhà bác học Robert Alexander Watson-Watt (1892-1973), người đi tiên phong trong việc phát triển ngành “Radar”. Chính ông là người đã sáng chế ra một hệ thống để dò tìm máy bay. Phát minh này đã góp phần vào chiến thắng của Không lực hoàng gia Anh trong thời Đệ Nhị thế chiến.
Giải thích về quyết định tại sao phải dùng một hệ thống “radar” chưa được hoàn hảo để bảo vệ bờ biển của Anh Quốc, ông Watson-Watt nói rằng giữa ba điều phải chọn lựa: một là điều tốt nhứt nhưng không thể thực hiện được, hai là điều tốt nhứt nhưng luôn đến muộn và ba là điều không tốt nhứt nhưng ở trong tầm tay, ông luôn chọn lựa điều thứ ba.
Thời trung học, tôi đã học thuộc lòng câu ngạn ngữ Pháp “Thà có một đồng trong tay còn hơn 2 đồng chưa có” (un tiens vaut mieux que deux tu l’auras) được thi sĩ Jean de La Fontaine trích dẫn trong bài thơ ngụ ngôn “Con cá nhỏ và người câu cá” (Le petit Poisson et le Pêcheur). Cho tới ngày nay, mỗi lần bị cám dỗ muốn có thái độ “cầu toàn” đối với bản thân hay người khác, tôi thường đem câu nói trên đây là nghiền ngẫm. Nó giúp tôi biết chấp nhận những giới hạn của mình và sống với giây phút hiện tại hơn.
Cách đây gần 200 năm, một văn hào Pháp khác là Francois Voltaire (1694-1778), đã tóm tắt cái triết lý ấy trong câu nói: “Sự toàn hảo là kẻ thù của điều thiện”. Tôi nhận thấy hầu hết các nhà sáng lập tôn giáo đều đề ra những lý tưởng sống cao quý tưởng chừng như không thể thực hiện được. Nhưng trong đối nhân xử thế, lúc nào các ngài cũng kêu gọi con người luôn biết tỏ ra cảm thông để chấp nhận, chớ không lên án những thiếu sót và lầm lỡ của người khác. Tôi nghĩ đến cung cách của Chúa Giêsu khi Ngài ngồi đồng bàn với những người thu thuế và gặp gỡ các cô gái điếm, vốn là hạng người mà vì cầu toàn và tự cho mình là người đạo đức, những người thuộc nhóm “biệt phái”, tức muốn tách biệt ra khỏi đám người phàm phu tục tử, luôn đẩy ra bên lề xã hội. Đúng như văn hào Voltaire đã nói “cái toàn hảo là kẻ thù của điều thiện”. Trong lịch sử nhân loại, con người cứ phải lập đi lập lại tấn tuồng: họ nhân danh sự hoàn hảo để bách hại và triệt hạ người khác. Như ai đó đã nói, con đường dẫn xuống địa ngục được lát toàn bằng thiện ý, tức ý muốn làm điều toàn hảo. Chủ nghĩa cộng sản, xét cho cùng, cũng là một thứ tôn giáo tôn thờ điều toàn hảo. Vì muốn xây dựng một thiên đàng trần gian không có cảnh người bóc lột người, người ta đã sát hại hàng triệu triệu sinh linh để gọi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Theo giáo sư Dobrin, một lý do khiến cho mục tiêu hoàn hảo “phản tác dụng” là vì những  cố gắng cần có để đạt được mục tiêu ấy đòi hỏi quá nhiều năng lực và khi đạt được thì mục tiêu ấy lại chẳng còn hữu dụng nữa. Chuyện “radar” được Không lực hoàng gia Anh sử dụng hồi năm 1940 là một thí dụ điển hình. Nếu không sử dụng một phương tiện chưa hoàn hảo hiện đang có trong tay mà phải chờ đợi cái hoàn hảo và tốt nhứt thì Không lực hoàng gia Anh có lẽ đã bị Đức Quốc Xã tiệt diệt mất rồi.
Chân lý nền tảng nhứt trong cuộc sống mà có lẽ ai cũng phải nhận ra là: con người vẫn mãi mãi bất toàn và giới hạn. Sự hiểu biết không đến một lúc mà phải tốn bao nhiêu công sức để tìm tòi và thử nghiệm mới tìm thấy là một bằng chứng hùng hồn nhứt về giới hạn của con người. Sự đào thải trong suy nghĩ và phát minh cũng nói lên điều đó. Các lý thuyết khoa học cứ chồng chất lên nhau và có khi loại trừ nhau. Mỗi ngày lại thêm một phát minh mới. Các tiện nghi vừa được trình làng ngày hôm trước, ngày hôm sau có thể đã lỗi thời. Con người thời đại đã chế ngự được không biết bao nhiêu bệnh tật, nhưng vẫn phải mãi mãi bó tay trước vô số những điều bất trắc xảy ra cho sự sống con người. Sự bùng nổ của dịch bệnh Ebola, một lần nữa nói lên tính giới hạn và sự sống mong manh của con người. Sự kiện ấy cho thấy con người sẽ chẳng bao giờ đạt được cái hoàn hảo. Điều được xem là tốt đẹp ở một thời, một nơi và với một người nào đó, có thể không còn phù hợp với một thời khác, một nơi khác hay với một người khác.
Chính vì không thể đạt được mà điều hoàn hảo thường dẫn đến thất vọng cho con người. Không những dẫn đến thất vọng, việc tôn thờ và đeo đuổi điều hoàn hảo cũng có thể đẩy con người vào thái độ cuồng tín. Nếu người cộng sản đã muốn lùa mọi người vào các trại tập trung để gọi là cải tạo tư tưởng hầu xây dựng một thế giới hoàn hảo, thì ngày nay một số người hồi giáo quá khích cũng không chủ trương khác hơn: họ muốn qui tất cả thế giới về một mối để chỉ nhìn nhận và thờ phượng Đấng Allah của họ. Cái thế giới hoàn hảo mà những người hồi giáo quá khích này muốn xây dựng sẽ chẳng bao giờ đến, mà trước mắt người ta chỉ thấy cảnh tàn sát, giết người một cách man rợ mà có lẽ không một nền văn minh nào từ cổ chí kim có thể chấp nhận được.
Suy nghĩ về những bất toàn và thiếu sót của con người, nhứt là trong bối cảnh tôn giáo, tôi thấy hiện ra trước mắt hình ảnh thật đẹp của cái hôn bình an, hòa giải và tha thứ mà trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ mới đây, vị đại diện của trên một tỷ người công giáo trên khắp thế giới là Đức Phanxicô đã trao cho vị đại diện của Giáo hội Chính thống là Đức Thượng Phụ Bartôlômêô I. Cách đây 1000 năm, hai truyền thống Kitô giáo lớn nhất thế giới này đã loại trừ nhau, “tuyệt thông” với nhau chỉ vì không chấp nhận những khác biệt và dĩ nhiên những bất toàn lịch sử của nhau. Cái hôn mà các nhà lãnh đạo tôn giáo lớn trên thế giới có thể trao cho nhau dường như muốn nói lên rằng bề dày lịch sử của các tôn giáo gia tăng không phải vì các di tích, các đền hay tượng thờ, mà do những bước đi tới để tháo gỡ những nghi kỵ, để chấp nhận những khác biệt và nhứt là bất toàn của các tổ chức tôn giáo, vốn chỉ là công trình bất toàn của con người bất toàn. Chỉ có những bước đi như thế mới thể hiện được bộ mặt đích thực mà tôn giáo nào và người có tôn giáo nào cũng luôn được nhắc nhở để tỏ bày: đó là bộ mặt của khoan nhượng, cảm thông và tha thứ.
Vào những dịp cuối năm, nhìn lại cuộc hành trình của mình là điều mà dù có tôn giáo hay không, có lẽ ai cũng được khuyến khích để làm. Tôi thấy hồi đầu tuần này thủ tướng Tony Abbott đã làm một cử chỉ đáng ca ngợi: ông đã tự đấm ngực để nhận lỗi về những thất bại của chính phủ do ông lãnh đạo. Lâu nay, vốn giữ thói hung hăng con bọ xít của những ngày làm đối lập, lúc nào ông cũng huênh hoang về những thành tích của mình và không bao giờ chấp nhận những bất toàn và thiếu sót trong các chính sách do ông đề ra.
Với cá nhân tôi, nhìn lại các quan hệ của mình với tha nhân và với chính bản thân là điều kiện để có được cái tâm an bình. Đạo lý của ông bà tổ tiên dạy phải “thương người như thể thương thân”. Trong các giới răn của đạo làm người, “thương thân” là điều cơ bản nhứt. Thương mình là chấp nhận và tha thứ cho những bất toàn và lầm lỡ của mình. Không chấp nhận và hòa giải với bản thân thì làm sao mới có được niềm an bình. Và dĩ nhiên, không chấp nhận, cảm thông và tha thứ cho bản thân thì làm sao có thể chấp nhận những khác biệt và tha thứ cho những bất toàn, lầm lỡ của tha nhân.
Nghĩ như thế cho nên trong Mùa Giáng Sinh năm nay, tự dưng tôi nghĩ đến sự “thiện tâm” cần có đối với bản thân và tự cầu chúc cho mình: bình an dưới thế cho người thiện tâm!



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét