Chu Thập
5/12/14
.jpg)
Cuối tuần rồi, tôi được
tham dự một lễ cưới thật...dễ thương. Dễ thương vì nghi lễ diễn ra ngoài
trời, trong bầu khí đơn sơ, thân tình, trên một ngọn đồi nhìn xuống vịnh
Sydney. Dễ thương là vì cô dâu không đội “voan”, không mặc chiếc áo cưới dài lê
thê lếch thếch, không trang điểm lòe loẹt và có lẽ cũng chẳng phải làm một kiểu
tóc đặc biệt nào cả. Người tham dự muốn đứng đâu cũng được, ăn mặc thế nào cũng
xong và thơ nhi thì tha hồ chạy qua chạy lại và được “tự do ngôn luận” nói cười.
Nhưng có lẽ dễ thương nhứt là lúc trao đổi lời hứa hôn, chú rể đã bật khóc một cách ngon lành.
Tôi nghĩ một số người Việt có mặt trong hôn lễ hôm đó
không thể không liên tưởng đến hình ảnh của đôi đũa lệch khi nhìn cặp uyên
ương. Chú rể là một người Úc cao lớn, dềnh dàng. Mỗi lần muốn hôn cô dâu, anh
phải uốn cong người một cách thật khổ sở, nhưng dĩ nhiên cũng thật dễ thương.
Cô dâu là một cô gái Việt Nam nhỏ bé, mảnh khảnh. Nhưng theo phiếu lý lịch mà
tôi được biết, cô dâu là một tiến sĩ khoa học, hiện đang có một công việc làm tốt.
Chú rể chỉ mới tốt nghiệp đại học, hiện chỉ làm việc bán phần.
Tôi thích diễn tiến của nghi lễ “dân sự” do một phụ nữ
người Úc cử hành. Chắc đã phải nghiên cứu “hồ sơ” của đôi tân hôn rất kỹ, cho
nên trước khi hai người trao đổi hôn ước và đeo nhẫn cho nhau, vị chủ hôn này
đã đưa mọi người hiện diện phải rưng rưng cảm động và cười chảy nước mắt theo từng
diễn tiến của một cuộc tình mà tôi nghĩ, nếu được lắng nghe, có lẽ các nhà làm
phim ở Hollywood hẳn phải tìm cách đưa lên màn ảnh thôi. Từ lúc quen nhau qua
Internet đến lúc góp gạo nấu cơm chung và “sống thử” trước khi chính thức trao
nhẫn cho nhau, đôi bạn trẻ lúc nào cũng “tương kính như tân” và luôn cố gắng để
thích nghi với nhau vì vô số những khác biệt giữa hai người. Tất cả câu chuyện
tình của họ là những chuyện nhỏ, rất nhỏ hàng ngày. Nhưng tất cả nói lên sự cần
nhau để hóa giải những khác biệt và bất toàn của nhau. Tôi vẫn nhớ mãi câu nói
ví von của chú rể khi thề thốt với cô dâu: “Anh là chiếc xe còn em là đầu máy”
(I’m the Car, you are the Engine). Chiếc xe có mẫu mã “hoành tráng” cách mấy,
nhưng nếu không có “đầu máy” thì làm sao chạy được. Còn đầu máy, dù có tối tân
và tinh vi đến đâu, nếu không có “bánh xe” thì cũng dậm chân tại chỗ thôi.
Nhưng có một chi tiết trong cung cách hầu như tương phản nhau của cặp tân hôn
được vị chủ hôn nhấn mạnh là: chú rể là một chàng thanh niên vụng về, “luộm thuộm”
(messy) nhưng nhiệt tình và tốt bụng trong khi cô dâu là người mực thước, chín
chắn, luôn suy tính như một khoa học gia, nhưng lúc nào cũng tế nhị trong cách
đối nhân xử thế.
Tôi đã tham dự không biết bao nhiêu lễ cưới, phần lớn được
cử hành theo nghi lễ tôn giáo. Tôi đã nghe không biết bao nhiêu “bài giảng” của
các vị chức sắc tôn giáo. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên, tôi đã cố gắng “nuốt”
từng lời trong bài chia sẻ và nhắn nhủ của vị chủ hôn cũng như những lời thề thốt
vượt ra ngoài khuôn phép và công thức chiếu lệ của đôi tân hôn. Tất cả đều qui
về một chủ điểm là những khác biệt và bất toàn của con người. Hôn nhân hay tình
yêu là một cuộc hành trình để chấp nhận và sống với những bất toàn và thiếu sót
của người mình yêu.
Từ trên đồi nhìn xuống vịnh Sydney, ngắm các thuyền bè
qua lại trên sóng nước, tôi nghĩ miên man về cuộc hành trình ấy. Xét cho cùng,
bí quyết của hạnh phúc chính là biết chấp nhận và sống với những bất toàn của
mình cũng như của tha nhân.
Trên báo mạng “Psychologytoday”, tôi đọc được ý tưởng ấy trong một bài viết của giáo
sư Arthur Dobrin, hiện đang giảng dạy về môn đạo đức tại đại học Hofstra, Hoa Kỳ.
Tác giả ghi lại một giai thoại về nhà bác học Robert Alexander Watson-Watt
(1892-1973), người đi tiên phong trong việc phát triển ngành “Radar”. Chính ông
là người đã sáng chế ra một hệ thống để dò tìm máy bay. Phát minh này đã góp phần
vào chiến thắng của Không lực hoàng gia Anh trong thời Đệ Nhị thế chiến.
Giải thích về quyết định tại sao phải dùng một hệ thống
“radar” chưa được hoàn hảo để bảo vệ bờ biển của Anh Quốc, ông Watson-Watt nói
rằng giữa ba điều phải chọn lựa: một là điều tốt nhứt nhưng không thể thực hiện
được, hai là điều tốt nhứt nhưng luôn đến muộn và ba là điều không tốt nhứt
nhưng ở trong tầm tay, ông luôn chọn lựa điều thứ ba.
Thời trung học, tôi đã học thuộc lòng câu ngạn ngữ Pháp
“Thà có một đồng trong tay còn hơn 2 đồng chưa có” (un tiens vaut mieux que
deux tu l’auras) được thi sĩ Jean de La Fontaine trích dẫn trong bài thơ ngụ
ngôn “Con cá nhỏ và người câu cá” (Le petit Poisson et le Pêcheur). Cho tới
ngày nay, mỗi lần bị cám dỗ muốn có thái độ “cầu toàn” đối với bản thân hay người
khác, tôi thường đem câu nói trên đây là nghiền ngẫm. Nó giúp tôi biết chấp nhận
những giới hạn của mình và sống với giây phút hiện tại hơn.
Cách đây gần 200 năm, một văn hào Pháp khác là Francois
Voltaire (1694-1778), đã tóm tắt cái triết lý ấy trong câu nói: “Sự toàn hảo là
kẻ thù của điều thiện”. Tôi nhận thấy hầu hết các nhà sáng lập tôn giáo đều đề
ra những lý tưởng sống cao quý tưởng chừng như không thể thực hiện được. Nhưng
trong đối nhân xử thế, lúc nào các ngài cũng kêu gọi con người luôn biết tỏ ra
cảm thông để chấp nhận, chớ không lên án những thiếu sót và lầm lỡ của người
khác. Tôi nghĩ đến cung cách của Chúa Giêsu khi Ngài ngồi đồng bàn với những
người thu thuế và gặp gỡ các cô gái điếm, vốn là hạng người mà vì cầu toàn và tự
cho mình là người đạo đức, những người thuộc nhóm “biệt phái”, tức muốn tách biệt
ra khỏi đám người phàm phu tục tử, luôn đẩy ra bên lề xã hội. Đúng như văn hào
Voltaire đã nói “cái toàn hảo là kẻ thù của điều thiện”. Trong lịch sử nhân loại,
con người cứ phải lập đi lập lại tấn tuồng: họ nhân danh sự hoàn hảo để bách hại
và triệt hạ người khác. Như ai đó đã nói, con đường dẫn xuống địa ngục được lát
toàn bằng thiện ý, tức ý muốn làm điều toàn hảo. Chủ nghĩa cộng sản, xét cho
cùng, cũng là một thứ tôn giáo tôn thờ điều toàn hảo. Vì muốn xây dựng một
thiên đàng trần gian không có cảnh người bóc lột người, người ta đã sát hại
hàng triệu triệu sinh linh để gọi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Theo giáo sư Dobrin, một lý do khiến cho mục tiêu hoàn hảo
“phản tác dụng” là vì những cố gắng cần
có để đạt được mục tiêu ấy đòi hỏi quá nhiều năng lực và khi đạt được thì mục
tiêu ấy lại chẳng còn hữu dụng nữa. Chuyện “radar” được Không lực hoàng gia Anh
sử dụng hồi năm 1940 là một thí dụ điển hình. Nếu không sử dụng một phương tiện
chưa hoàn hảo hiện đang có trong tay mà phải chờ đợi cái hoàn hảo và tốt nhứt thì
Không lực hoàng gia Anh có lẽ đã bị Đức Quốc Xã tiệt diệt mất rồi.
Chân lý nền tảng nhứt trong cuộc sống mà có lẽ ai cũng phải
nhận ra là: con người vẫn mãi mãi bất toàn và giới hạn. Sự hiểu biết không đến
một lúc mà phải tốn bao nhiêu công sức để tìm tòi và thử nghiệm mới tìm thấy là
một bằng chứng hùng hồn nhứt về giới hạn của con người. Sự đào thải trong suy
nghĩ và phát minh cũng nói lên điều đó. Các lý thuyết khoa học cứ chồng chất
lên nhau và có khi loại trừ nhau. Mỗi ngày lại thêm một phát minh mới. Các tiện
nghi vừa được trình làng ngày hôm trước, ngày hôm sau có thể đã lỗi thời. Con
người thời đại đã chế ngự được không biết bao nhiêu bệnh tật, nhưng vẫn phải
mãi mãi bó tay trước vô số những điều bất trắc xảy ra cho sự sống con người. Sự
bùng nổ của dịch bệnh Ebola, một lần nữa nói lên tính giới hạn và sự sống mong
manh của con người. Sự kiện ấy cho thấy con người sẽ chẳng bao giờ đạt được cái
hoàn hảo. Điều được xem là tốt đẹp ở một thời, một nơi và với một người nào đó,
có thể không còn phù hợp với một thời khác, một nơi khác hay với một người
khác.
Chính vì không thể đạt được mà điều hoàn hảo thường dẫn đến
thất vọng cho con người. Không những dẫn đến thất vọng, việc tôn thờ và đeo đuổi
điều hoàn hảo cũng có thể đẩy con người vào thái độ cuồng tín. Nếu người cộng sản
đã muốn lùa mọi người vào các trại tập trung để gọi là cải tạo tư tưởng hầu xây
dựng một thế giới hoàn hảo, thì ngày nay một số người hồi giáo quá khích cũng
không chủ trương khác hơn: họ muốn qui tất cả thế giới về một mối để chỉ nhìn
nhận và thờ phượng Đấng Allah của họ. Cái thế giới hoàn hảo mà những người hồi
giáo quá khích này muốn xây dựng sẽ chẳng bao giờ đến, mà trước mắt người ta chỉ
thấy cảnh tàn sát, giết người một cách man rợ mà có lẽ không một nền văn minh
nào từ cổ chí kim có thể chấp nhận được.
Suy nghĩ về những bất toàn và thiếu sót của con người, nhứt
là trong bối cảnh tôn giáo, tôi thấy hiện ra trước mắt hình ảnh thật đẹp của
cái hôn bình an, hòa giải và tha thứ mà trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ mới
đây, vị đại diện của trên một tỷ người công giáo trên khắp thế giới là Đức
Phanxicô đã trao cho vị đại diện của Giáo hội Chính thống là Đức Thượng Phụ
Bartôlômêô I. Cách đây 1000 năm, hai truyền thống Kitô giáo lớn nhất thế giới
này đã loại trừ nhau, “tuyệt thông” với nhau chỉ vì không chấp nhận những khác
biệt và dĩ nhiên những bất toàn lịch sử của nhau. Cái hôn mà các nhà lãnh đạo
tôn giáo lớn trên thế giới có thể trao cho nhau dường như muốn nói lên rằng bề
dày lịch sử của các tôn giáo gia tăng không phải vì các di tích, các đền hay tượng
thờ, mà do những bước đi tới để tháo gỡ những nghi kỵ, để chấp nhận những khác
biệt và nhứt là bất toàn của các tổ chức tôn giáo, vốn chỉ là công trình bất
toàn của con người bất toàn. Chỉ có những bước đi như thế mới thể hiện được bộ
mặt đích thực mà tôn giáo nào và người có tôn giáo nào cũng luôn được nhắc nhở
để tỏ bày: đó là bộ mặt của khoan nhượng, cảm thông và tha thứ.
Vào những dịp cuối năm, nhìn lại cuộc hành trình của mình
là điều mà dù có tôn giáo hay không, có lẽ ai cũng được khuyến khích để làm.
Tôi thấy hồi đầu tuần này thủ tướng Tony Abbott đã làm một cử chỉ đáng ca ngợi:
ông đã tự đấm ngực để nhận lỗi về những thất bại của chính phủ do ông lãnh đạo.
Lâu nay, vốn giữ thói hung hăng con bọ xít của những ngày làm đối lập, lúc nào
ông cũng huênh hoang về những thành tích của mình và không bao giờ chấp nhận những
bất toàn và thiếu sót trong các chính sách do ông đề ra.
Với cá nhân tôi, nhìn lại các quan hệ của mình với tha
nhân và với chính bản thân là điều kiện để có được cái tâm an bình. Đạo lý của ông bà tổ tiên dạy
phải “thương người như thể thương thân”. Trong các giới răn của đạo làm người,
“thương thân” là điều cơ bản nhứt. Thương mình là chấp nhận và tha thứ cho những
bất toàn và lầm lỡ của mình. Không chấp nhận và hòa giải với bản thân thì làm
sao mới có được niềm an bình. Và dĩ nhiên, không chấp nhận, cảm thông và tha thứ
cho bản thân thì làm sao có thể chấp nhận những khác biệt và tha thứ cho những bất toàn, lầm lỡ của
tha nhân.
Nghĩ như thế cho nên trong Mùa Giáng Sinh năm nay, tự
dưng tôi nghĩ đến sự “thiện tâm” cần có đối với bản thân và tự cầu chúc cho
mình: bình an dưới thế cho người thiện tâm!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét