Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

Học Sống




Chu Thập
25.05.11

Tôi thích những mẩu chuyện “tử tế” và những kinh nghiệm “sống” trên tạp chí Reader’s Digest, ấn bản Úc châu. Trong số ra tháng 6/2011 của tạp chí, tôi đọc được câu chuyện khá cảm động của một tù nhân tại Trung tâm cải huấn Junee NSW. Tác giả ký tên là Norman Yammine kể lại cuộc sống trong tù: “Ở tù cho tôi cái cảm giác như bị chôn sống. Tôi là một con rối bị người ta giựt giây để bắt tôi phải ăn, ngủ và thức dậy khi nào họ muốn.
Cứ đêm đến, tôi nằm sải lên giường và nhai đi nhai lại cùng một ý nghĩ. Đầu tôi đầy dẫy hình ảnh của những người tôi thương như cha mẹ tôi, em tôi, hôn thê của tôi, bạn bè của tôi.
Tôi cũng nghĩ đến những điều sai trái đã xảy ra và tưởng tượng ra cách đền bù cho những gì tôi đã đánh mất. Ở tuổi 27, tôi đang thụ án 9 năm tù vì tội bắn phá và cố ý đả thương. Sau 6 năm cấm cố, việc tạm tha của tôi sẽ được duyệt xét vào tháng 12 tới đây.
Tôi sống mỗi ngày như mọi ngày. Không có gì thay đổi, ngoại trừ con người. Các bạn tù được chuyển đến một nơi khác hay được trả tự do. Một số đến từ những trại tù khác hay vừa mới bị bắt giam. Cánh cửa nhà tù liên tục đóng mở.
Nhưng nhà tù đã làm cho tôi thay đổi. Khi phạm tội ác, tôi là một thanh niên hư hỏng, nhưng nay đã tìm gặp lại chính mình. Và từ một kinh nghiệm tiêu cực, nhà tù đã biến thành một kinh nghiệm tích cực. Tôi đã làm chủ được chính mình và đã tìm ra những con đường mới.”
Norman giải thích rằng khi vừa bị giam, khả năng đọc viết của anh rất hạn chế vì anh là một học sinh lười biếng. Thế rồi, khi làm một vòng quanh sân nhà tù, anh nhận thấy các bạn tù khác, người đọc sách, kẻ viết thư cho gia đình và bạn bè. Anh thấy thất vọng vì mình không làm được như thế. Anh mơ ước sẽ có một ngày đuợc ngồi dưới ánh mặt trời, nhâm nhi tách cà phê và đọc một tờ báo hay một cuốn sách mình thích. Anh cũng mơ có ngày ngồi viết thư cho gia đình, bạn bè và chia sẻ những tư tưởng và cảm nghĩ của mình.
“Tôi liền quyết định không bỏ phí thời giờ trong tù, nhưng thay vào đó sẽ lợi dụng mọi phương tiện có sẵn. Tôi bắt đầu học. Đây chỉ là những bước tập tễnh, nhưng tôi cương quyết phải  đạt cho bằng được mục tiêu của mình. Một ngày nào đó, tôi cũng sẽ đọc và viết đàng hoàng.”
Giờ đây, sau 5 năm miệt mài, với nhiều kiên trì vất vả, Norman Yammine đã đạt được mục đích. Anh không những biết đọc biết viết trôi chảy mà còn hoàn tất một khóa về cách giúp người khác đọc và viết. Anh viết: “Họ biết ơn vì sự giúp đỡ của tôi và tôi cũng biết ơn vì có thể trao lại một cái gì đó.” Ngoài ra, anh cũng đã tham dự một khóa viết văn do một giáo sư trường TAFE hướng dẫn. Viên giáo sư này đã trao cho anh một cuốn Reader’s Digest và khuyên anh nên chia sẻ câu chuyện của mình.
Anh tâm sự: “Cuộc hành trình ngàn dặm của tôi bắt đầu bằng một bước nhỏ. Giờ đây, tôi đang hưởng từng khoảnh khắc sự thành công của tôi. Học viết và đọc ở một trình độ cao hơn đang mang lại cho tôi sức mạnh nội tâm để chia sẻ về mình một cách tích cực hơn. Tôi cũng đã có thể có những cuộc trò chuyện tốt đẹp hơn với gia đình và bạn bè của tôi.
Ngày mà tôi hằng mơ ước đã đến: giờ đây tôi có thể tận hưởng tách cà phê với một cuốn sách cầm trong tay. Học đọc và viết đã thay đổi cuộc sống của tôi và bài viết này là bài văn “đúng đắn” đầu tiên của tôi, nhưng sẽ không phải là bài cuối cùng.”
Tác giả kết thúc bài luận văn đầu tiên của mình với bài thơ có tựa đề “Cơn Mưa tháng 11” như sau:
Có quá nhiều kẻ thù ghét trong một nơi.
Họ mặc cả chuyện chiến tranh và biện minh cho chính nghĩa của mình.
Tôi ngồi ở đây và cố gắng sống tử tế.
Người ta tưởng tôi là kẻ mất trí.
Điều tôi đang làm là thay đổi cách sống của tôi, sửa sai những sai lầm của quá khứ.
Tôi không bao giờ quay trở lại quá khứ.
Khi tôi ra khỏi tù, người ta sẽ tưởng tôi là một đồ bỏ.
Tôi biết rằng hai tiếng “xin lỗi” của tôi sẽ không bao giờ xoa dịu mọi đau thương.
Nhưng tôi cầu nguyện cho trời lại sáng sau cơn mưa
(x. Reader’s Digest, Úc châu, số tháng 6/2011)
Norman Yammine xin Reader’s Digest chuyển món tiền nhuận bút từ bài viết này cho cơ quan Youth Off the Street. Anh cũng có ý định sẽ viết hồi ký khi ra khỏi tù, với hy vọng giúp cho người khác không đi vào con đường phạm pháp của anh.
Norman Yammine không chỉ biết đọc và biết viết để chia sẻ những ý tưởng và cảm nghĩ của mình. Anh không chỉ trau dồi nghệ thuật “cầm bút”. Theo tôi, điều quan trọng nhứt mà người tù này đã “học” được trong tù chính là biết sống như một con người “tử tế”, không chỉ tự giúp mình, mà còn trở nên “hữu ích” cho người khác.
Có lẽ đây là bài học mà ngày nay học sinh sinh viên ít học được từ trường học. Ngày xưa, trước năm 1975, ngoài môn công dân giáo dục, học sinh tại miền Nam Việt nam còn học thêm trong lớp những bài học “làm người” mà hầu như thày giáo nào cũng khéo léo đưa vào trong phần giảng dạy chuyên môn. Thày giáo không chỉ là người bán kiến thức, mà còn là người chia sẻ cái nhìn, kinh nghiệm sống, tư cách cũng như những giá trị đạo đức. Tôi còn nhớ trong năm học cuối cùng ở trường Collège d’Adran của các sư huynh La san ở Đà lạt, sư huynh hiệu trưởng cũng là người phụ trách môn triết học. Ngoài bài học “dưới cờ” vào mỗi thứ Hai hàng tuần, trong lớp học, vị sư huynh khả kính này lúc nào cũng tìm cách xen vào bài giảng một bài học luân lý. Cứ mỗi lần sư huynh lên “giọng đạo đức” thì thế nào cũng có vài học sinh cười cợt mỉa mai. Tôi không biết hiện nay, những người bạn học của tôi có còn giữ lại chút gì cho cuộc sống của họ không. Riêng tôi, những bài học vỡ lòng về làm người mà vị sư huynh này đã tìm cách truyền đạt cho học sinh, tôi vẫn còn nhớ như in và xem đó như một hành trang không thể thiếu được cho cuộc đời.
Ngày nay, không chỉ trong những nước cộng sản, mà ngay trong những xã hội dân chủ, ai cũng than phiền rằng “trình độ” đạo đức, phẩm hạnh hay nói chung “cách sống” của học sinh xuống cấp; đầu óc thì ngập tràn kiến thức, nhưng tâm hồn thì trống rỗng. Sách vở thì vô số kể, nhưng sự khôn ngoan thì lại thiếu vắng.
Thực ra, không chỉ trong thời đại thông tin toàn cầu này, mà ngay từ thập niên 1950, một tác giả người Anh là ông C.G.L. Du Cann cũng đã lên tiếng cảnh cáo về tình trạng thiếu giáo dục về “tư cách” và “đạo đức” của học sinh Anh. Trong phần đề tựa cuốn sách “Teach Yourself to Live” (Tự Học làm Người), xuất bản lần đầu tiên năm 1955,  tác giả đưa ra nhận xét: hầu như môn học nào cũng đều có thể được dạy trong trường học. Tuy nhiên, không có bất cứ trường học hay đại học nào có môn học làm người.
Theo tác giả, không gì quan trọng hơn là môn “học sống” và nghệ thuật sống. Mọi thứ kiến thức khác đều phụ thuộc vào nghệ thuật này, bởi vì mục đích của cuộc sống là sống cho ra người và có một cuộc sống tuyệt vời nghĩa là sống hạnh phúc.
Dĩ nhiên, cuộc sống tự nó đã là một trường dạy chúng ta phải sống như thế nào. Chúng ta thường nói đến “kinh nghiệm sống” và  “vốn  sống”. Điều này hoàn toàn đúng. Nhưng phải trải nghiệm nhiều thử thách và sai lầm, qua bao thất bại và khổ đau, chúng ta mới biết được, thường là muộn màng, phải sống như thế nào. Kinh nghiệm nào cũng thường chỉ học được bằng một cái giá có khi quá đắt.
Thực ra, ngay cả cái vốn học ở nhà trường cũng không đương nhiên mang lại thành công cho chúng ta. Không có Đại học nào có thể sản xuất ra những Shakespeare, những Beethoven, những Mozart, những Bill Gates hay những Nguyễn Du. Thiên tài có những tài năng thiên phú mà không phải ai cũng có được. Dù vậy, phải nhìn nhận rằng cái vốn liếng của học đường ngày nay đã đóng góp đáng kể vào sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật cũng như học thuật nói chung. Tốc độ tiến bộ của loài người trong khoa học và kỹ thuật quả đang làm cho chúng ta chóng mặt. Mỗi một ngày không cập nhựt đều là một bước thụt lùi khủng khiếp đối với mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên, mặt khác, chúng ta lại nhận thấy rằng xem chừng nhân loại đã không đạt được một bước tiền nào trong lãnh vực luân lý, đạo đức hay nghệ thuật sống nói chung. Con người thời đại chúng ta chưa chắc đã “khôn ngoan” và “hạnh phúc” hơn con người của thời Đức Phật, Đức Khổng Tử, các nhà hiền triết Hy lạp hay Chúa Giêsu. Nhân loại ở những thời xa xưa ấy làm gì đã phạm những tội ác khủng khiếp như dưới thời Đức quốc xã, như trong các chế độ cộng sản hay như thời khủng bố toàn cầu ngày nay. Tổng số tội ác của nhân loại kể từ thuở hồng hoang của lịch sử cho đến thế kỷ đầu thế kỷ 20 có lẽ cũng không bằng tội ác của một thế kỷ 20 vừa qua và đầu thế kỷ 21 này. Có bao giờ cảnh giết người vô tội lại xảy ra hàng ngày và ở một qui mô rộng lớn cho bằng thời đại chúng ta không?
Cái chết của trùm khủng bố Osama Bin Laden không thể không gợi lại cho chúng ta sự tàn ác và “vô đạo” của con người thời đại.
Buổi tối hôm 1 tháng 5 vừa qua, khi tổng thống Hoa kỳ Barack Obama loan báo rằng “Osama Bin Laden đã chết, công lý đã được thực thi”, cũng là ngày kỷ niệm đúng 66 năm ngày một trong những đồ tể khét tiếng nhứt trong lịch sử nhân loại là Hitler chết. Thực vậy, ngày 1 tháng 5 năm 1945, chính phủ Đức loan báo Adolf Hitler đã chết. Cả hai đều là hiện thân của tài trí và sự thông minh được sử dụng chỉ để phục vụ Tội Ác. Cả hai đều xem việc sát hại những người vô tội như một trò chơi. Cách đây 2 ngàn năm, bạo chúa Nero của đế quốc La mã cũng đã từng xem việc sát hại những người vô tội như một trò chơi: ông cho nổi lửa đốt thành La mã, cười cợt một cách nham nhở và xem đó như một cái cớ để triệt hạ các tín hữu Kitô tiên khởi. Nhưng dù sao, “trình độ” độc ác của bạo chúa này có lẽ chẳng là gì so với sự tàn bạo của Hitler hay Osama Bin Laden, bởi lẽ sự dã man thường tỷ lệ thuận với trí thông minh và tài trí của con người. Con người càng thông minh thì sự độc ác càng khủng khiếp.
Ký giả Peter Bergen của tạp chí Time kể lại rằng năm 1997, khi thực hiện một chương trình cho Đài Truyền Hình CNN, ông có đi gặp Osama Bin Laden tại miền đông Afghanistan để thu hình cuộc phỏng vấn đầu tiên mà trùm khủng bố dành cho ông. Ký giả Bergen rất ngạc nhiên về sự thông minh của Bin Laden. Trùm khủng bố là một con người nắm vững mọi thông tin. Ông cư xử chẳng khác nào một đạo sĩ. Các “tín đồ” của ông tôn thờ ông, lắng nghe từng lời nói của ông.
Rất tiếc, Bin Laden đã sử dụng sự thông minh, tài trí, đảm lược của mình không phải để phục vụ người khác mà chỉ để nuôi dưỡng hận thù, khủng bố và tiêu diệt những người vô tội. Tôi thấy thương cho 3 người vợ và những đứa con của ông đã phải sống một cuộc sống không bình thường khi theo ông từ những hang động ở Afghanistan hay cuộc sống đóng kín tại Abbottabad. Là một người chồng và cha, hẳn Osama Bin Laden cũng mong cho vợ con mình được sống hạnh phúc. Nhưng với cuộc sống “cuồng nộ” và đầy thù hận của ông, ông không chỉ sát hại vô tội vạ những người vô tội, ông cũng đầy đọa chính bản thân và người thân của mình. Ông có tiền rừng bạc bể trong tay, ông có trí thông minh hơn người, nhưng ông không bao giờ được dạy hay tự mình học được bài học đạo đức vỡ lòng: “Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi thì cũng đừng làm cho họ.” Hay tích cực hơn như Chúa Giêsu đã dạy: “Những gì ngươi muốn người khác làm cho ngươi thì cũng hãy làm cho họ.”










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét