Chu Thập
25.05.11

Cứ
đêm đến, tôi nằm sải lên giường và nhai đi nhai lại cùng một ý nghĩ. Đầu tôi đầy
dẫy hình ảnh của những người tôi thương như cha mẹ tôi, em tôi, hôn thê của
tôi, bạn bè của tôi.
Tôi
cũng nghĩ đến những điều sai trái đã xảy ra và tưởng tượng ra cách đền bù cho
những gì tôi đã đánh mất. Ở tuổi 27, tôi đang thụ án 9 năm tù vì tội bắn phá và
cố ý đả thương. Sau 6 năm cấm cố, việc tạm tha của tôi sẽ được duyệt xét vào
tháng 12 tới đây.
Tôi sống
mỗi ngày như mọi ngày. Không có gì thay đổi, ngoại trừ con người. Các bạn tù được
chuyển đến một nơi khác hay được trả tự do. Một số đến từ những trại tù khác
hay vừa mới bị bắt giam. Cánh cửa nhà tù liên tục đóng mở.
Nhưng
nhà tù đã làm cho tôi thay đổi. Khi phạm tội ác, tôi là một thanh niên hư hỏng,
nhưng nay đã tìm gặp lại chính mình. Và từ một kinh nghiệm tiêu cực, nhà tù đã
biến thành một kinh nghiệm tích cực. Tôi đã làm chủ được chính mình và đã tìm
ra những con đường mới.”
Norman giải thích rằng khi vừa
bị giam, khả năng đọc viết của anh rất hạn chế vì anh là một học sinh lười biếng.
Thế rồi, khi làm một vòng quanh sân nhà tù, anh nhận thấy các bạn tù khác, người
đọc sách, kẻ viết thư cho gia đình và bạn bè. Anh thấy thất vọng vì mình không
làm được như thế. Anh mơ ước sẽ có một ngày đuợc ngồi dưới ánh mặt trời, nhâm
nhi tách cà phê và đọc một tờ báo hay một cuốn sách mình thích. Anh cũng mơ có
ngày ngồi viết thư cho gia đình, bạn bè và chia sẻ những tư tưởng và cảm nghĩ của
mình.
“Tôi liền quyết định không bỏ phí thời giờ trong tù, nhưng thay vào đó sẽ
lợi dụng mọi phương tiện có sẵn. Tôi bắt đầu học. Đây chỉ là những bước tập tễnh,
nhưng tôi cương quyết phải đạt cho bằng
được mục tiêu của mình. Một ngày nào đó, tôi cũng sẽ đọc và viết đàng hoàng.”
Giờ đây, sau 5 năm miệt mài, với
nhiều kiên trì vất vả, Norman Yammine đã đạt được mục đích. Anh không những biết
đọc biết viết trôi chảy mà còn hoàn tất một khóa về cách giúp người khác đọc và
viết. Anh viết: “Họ biết ơn vì sự giúp đỡ
của tôi và tôi cũng biết ơn vì có thể trao lại một cái gì đó.” Ngoài ra,
anh cũng đã tham dự một khóa viết văn do một giáo sư trường TAFE hướng dẫn.
Viên giáo sư này đã trao cho anh một cuốn Reader’s Digest và khuyên anh nên
chia sẻ câu chuyện của mình.
Anh tâm sự: “Cuộc hành trình ngàn dặm của tôi bắt đầu bằng
một bước nhỏ. Giờ đây, tôi đang hưởng từng khoảnh khắc sự thành công của tôi. Học
viết và đọc ở một trình độ cao hơn đang mang lại cho tôi sức mạnh nội tâm để
chia sẻ về mình một cách tích cực hơn. Tôi cũng đã có thể có những cuộc trò
chuyện tốt đẹp hơn với gia đình và bạn bè của tôi.
Ngày
mà tôi hằng mơ ước đã đến: giờ đây tôi có thể tận hưởng tách cà phê với một cuốn
sách cầm trong tay. Học đọc và viết đã thay đổi cuộc sống của tôi và bài viết
này là bài văn “đúng đắn” đầu tiên của tôi, nhưng sẽ không phải là bài cuối
cùng.”
Tác giả kết thúc bài luận văn
đầu tiên của mình với bài thơ có tựa đề “Cơn Mưa tháng 11” như sau:
Có
quá nhiều kẻ thù ghét trong một nơi.
Họ mặc
cả chuyện chiến tranh và biện minh cho chính nghĩa của mình.
Tôi
ngồi ở đây và cố gắng sống tử tế.
Người
ta tưởng tôi là kẻ mất trí.
Điều
tôi đang làm là thay đổi cách sống của tôi, sửa sai những sai lầm của quá khứ.
Tôi
không bao giờ quay trở lại quá khứ.
Khi
tôi ra khỏi tù, người ta sẽ tưởng tôi là một đồ bỏ.
Tôi
biết rằng hai tiếng “xin lỗi” của tôi sẽ không bao giờ xoa dịu mọi đau thương.
Nhưng
tôi cầu nguyện cho trời lại sáng sau cơn mưa”
(x. Reader’s Digest, Úc châu,
số tháng 6/2011)
Norman Yammine xin Reader’s
Digest chuyển món tiền nhuận bút từ bài viết này cho cơ quan Youth Off the
Street. Anh cũng có ý định sẽ viết hồi ký khi ra khỏi tù, với hy vọng giúp cho
người khác không đi vào con đường phạm pháp của anh.
Norman Yammine không chỉ biết
đọc và biết viết để chia sẻ những ý tưởng và cảm nghĩ của mình. Anh không chỉ
trau dồi nghệ thuật “cầm bút”. Theo tôi, điều quan trọng nhứt mà người tù này
đã “học” được trong tù chính là biết sống như một con người “tử tế”, không chỉ
tự giúp mình, mà còn trở nên “hữu ích” cho người khác.
Có lẽ đây là bài học mà ngày
nay học sinh sinh viên ít học được từ trường học. Ngày xưa, trước năm 1975,
ngoài môn công dân giáo dục, học sinh tại miền Nam Việt nam còn học thêm trong
lớp những bài học “làm người” mà hầu
như thày giáo nào cũng khéo léo đưa vào trong phần giảng dạy chuyên môn. Thày
giáo không chỉ là người bán kiến thức, mà còn là người chia sẻ cái nhìn, kinh
nghiệm sống, tư cách cũng như những giá trị đạo đức. Tôi còn nhớ trong năm học
cuối cùng ở trường Collège d’Adran của các sư huynh La san ở Đà lạt, sư huynh
hiệu trưởng cũng là người phụ trách môn triết học. Ngoài bài học “dưới cờ” vào
mỗi thứ Hai hàng tuần, trong lớp học, vị sư huynh khả kính này lúc nào cũng tìm
cách xen vào bài giảng một bài học luân lý. Cứ mỗi lần sư huynh lên “giọng đạo
đức” thì thế nào cũng có vài học sinh cười cợt mỉa mai. Tôi không biết hiện nay,
những người bạn học của tôi có còn giữ lại chút gì cho cuộc sống của họ không.
Riêng tôi, những bài học vỡ lòng về làm người mà vị sư huynh này đã tìm cách truyền
đạt cho học sinh, tôi vẫn còn nhớ như in và xem đó như một hành trang không thể
thiếu được cho cuộc đời.
Ngày nay, không chỉ trong những
nước cộng sản, mà ngay trong những xã hội dân chủ, ai cũng than phiền rằng “trình
độ” đạo đức, phẩm hạnh hay nói chung “cách sống” của học sinh xuống cấp; đầu óc
thì ngập tràn kiến thức, nhưng tâm hồn thì trống rỗng. Sách vở thì vô số kể,
nhưng sự khôn ngoan thì lại thiếu vắng.
Thực ra, không chỉ trong thời
đại thông tin toàn cầu này, mà ngay từ thập niên 1950, một tác giả người Anh là
ông C.G.L. Du Cann cũng đã lên tiếng cảnh cáo về tình trạng thiếu giáo dục về
“tư cách” và “đạo đức” của học sinh Anh. Trong phần đề tựa cuốn sách “Teach Yourself to Live” (Tự Học làm Người),
xuất bản lần đầu tiên năm 1955, tác giả
đưa ra nhận xét: hầu như môn học nào cũng đều có thể được dạy trong trường học.
Tuy nhiên, không có bất cứ trường học hay đại học nào có môn học làm người.
Theo tác giả, không gì quan trọng
hơn là môn “học sống” và nghệ thuật sống. Mọi thứ kiến thức khác đều phụ thuộc
vào nghệ thuật này, bởi vì mục đích của cuộc sống là sống cho ra người và có một
cuộc sống tuyệt vời nghĩa là sống hạnh phúc.
Dĩ nhiên, cuộc sống tự nó đã
là một trường dạy chúng ta phải sống như thế nào. Chúng ta thường nói đến “kinh
nghiệm sống” và “vốn sống”. Điều này hoàn toàn đúng. Nhưng phải trải
nghiệm nhiều thử thách và sai lầm, qua bao thất bại và khổ đau, chúng ta mới biết
được, thường là muộn màng, phải sống như thế nào. Kinh nghiệm nào cũng thường
chỉ học được bằng một cái giá có khi quá đắt.
Thực ra, ngay cả cái vốn học ở
nhà trường cũng không đương nhiên mang lại thành công cho chúng ta. Không có Đại
học nào có thể sản xuất ra những Shakespeare, những Beethoven, những Mozart, những
Bill Gates hay những Nguyễn Du. Thiên tài có những tài năng thiên phú mà không
phải ai cũng có được. Dù vậy, phải nhìn nhận rằng cái vốn liếng của học đường
ngày nay đã đóng góp đáng kể vào sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật cũng như học
thuật nói chung. Tốc độ tiến bộ của loài người trong khoa học và kỹ thuật quả
đang làm cho chúng ta chóng mặt. Mỗi một ngày không cập nhựt đều là một bước thụt
lùi khủng khiếp đối với mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên, mặt khác, chúng ta
lại nhận thấy rằng xem chừng nhân loại đã không đạt được một bước tiền nào
trong lãnh vực luân lý, đạo đức hay nghệ thuật sống nói chung. Con người thời đại
chúng ta chưa chắc đã “khôn ngoan” và “hạnh phúc” hơn con người của thời Đức Phật,
Đức Khổng Tử, các nhà hiền triết Hy lạp hay Chúa Giêsu. Nhân loại ở những thời
xa xưa ấy làm gì đã phạm những tội ác khủng khiếp như dưới thời Đức quốc xã, như
trong các chế độ cộng sản hay như thời khủng bố toàn cầu ngày nay. Tổng số tội
ác của nhân loại kể từ thuở hồng hoang của lịch sử cho đến thế kỷ đầu thế kỷ 20
có lẽ cũng không bằng tội ác của một thế kỷ 20 vừa qua và đầu thế kỷ 21 này. Có
bao giờ cảnh giết người vô tội lại xảy ra hàng ngày và ở một qui mô rộng lớn
cho bằng thời đại chúng ta không?
Cái chết của trùm khủng bố
Osama Bin Laden không thể không gợi lại cho chúng ta sự tàn ác và “vô đạo” của
con người thời đại.
Buổi tối hôm 1 tháng 5 vừa
qua, khi tổng thống Hoa kỳ Barack Obama loan báo rằng “Osama Bin Laden đã chết,
công lý đã được thực thi”, cũng là ngày kỷ niệm đúng 66 năm ngày một trong những
đồ tể khét tiếng nhứt trong lịch sử nhân loại là Hitler chết. Thực vậy, ngày 1
tháng 5 năm 1945, chính phủ Đức loan báo Adolf Hitler đã chết. Cả hai đều là hiện
thân của tài trí và sự thông minh được sử dụng chỉ để phục vụ Tội Ác. Cả hai đều
xem việc sát hại những người vô tội như một trò chơi. Cách đây 2 ngàn năm, bạo
chúa Nero của đế quốc La mã cũng đã từng xem việc sát hại những người vô tội
như một trò chơi: ông cho nổi lửa đốt thành La mã, cười cợt một cách nham nhở
và xem đó như một cái cớ để triệt hạ các tín hữu Kitô tiên khởi. Nhưng dù sao,
“trình độ” độc ác của bạo chúa này có lẽ chẳng là gì so với sự tàn bạo của
Hitler hay Osama Bin Laden, bởi lẽ sự dã man thường tỷ lệ thuận với trí thông
minh và tài trí của con người. Con người càng thông minh thì sự độc ác càng khủng
khiếp.
Ký giả Peter Bergen của tạp
chí Time kể lại rằng năm 1997, khi thực hiện một chương trình cho Đài Truyền
Hình CNN, ông có đi gặp Osama Bin Laden tại miền đông Afghanistan để thu hình
cuộc phỏng vấn đầu tiên mà trùm khủng bố dành cho ông. Ký giả Bergen rất ngạc
nhiên về sự thông minh của Bin Laden. Trùm khủng bố là một con người nắm vững mọi
thông tin. Ông cư xử chẳng khác nào một đạo sĩ. Các “tín đồ” của ông tôn thờ
ông, lắng nghe từng lời nói của ông.
Rất tiếc, Bin Laden đã sử dụng
sự thông minh, tài trí, đảm lược của mình không phải để phục vụ người khác mà
chỉ để nuôi dưỡng hận thù, khủng bố và tiêu diệt những người vô tội. Tôi thấy
thương cho 3 người vợ và những đứa con của ông đã phải sống một cuộc sống không
bình thường khi theo ông từ những hang động ở Afghanistan hay cuộc sống đóng
kín tại Abbottabad. Là một người chồng và cha, hẳn Osama Bin Laden cũng mong
cho vợ con mình được sống hạnh phúc. Nhưng với cuộc sống “cuồng nộ” và đầy thù
hận của ông, ông không chỉ sát hại vô tội vạ những người vô tội, ông cũng đầy đọa
chính bản thân và người thân của mình. Ông có tiền rừng bạc bể trong tay, ông
có trí thông minh hơn người, nhưng ông không bao giờ được dạy hay tự mình học
được bài học đạo đức vỡ lòng: “Những gì
ngươi không muốn người khác làm cho ngươi thì cũng đừng làm cho họ.” Hay
tích cực hơn như Chúa Giêsu đã dạy: “Những
gì ngươi muốn người khác làm cho ngươi thì cũng hãy làm cho họ.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét