Chu Thập
02.06.11
Cách đây không lâu, một đứa
cháu gái 9 tuổi của tôi có gởi email cho tôi và mời tôi xem “Facebook” của nó. Tôi định trả lời rằng
tôi có biết cái “quái” gì về Facebook đâu mà xem. Nhưng nghĩ lại thấy mình nhẫn
tâm quá cho nên tôi đành dẹp bỏ tự ái về sự ngu dốt và lạc hậu của mình để nhờ
người giải thích về cái loại hình “mạng” mới này hầu còn có dịp liên lạc với đứa
cháu gái và cũng để tỏ ra mình là người “thức thời” với những cái mới mẻ trên
thế giới. Dĩ nhiên, “mới” với tôi chứ với người ta thì nó cũng đã cũ rích rồi.
Thời buổi này, vừa mới “cập nhựt” (up date) đó thì cũng “lỗi thời” (out of
date) ngay!
Trong thời đại thông tin toàn
cầu này, kỹ thuật thông tin tiến nhanh đến độ làm cho tôi luôn cảm thấy choáng
váng và bị bỏ lại đàng sau. Có những thứ tôi định nhào vô để gọi là bắt kịp thời
đại thì người ta bảo rằng nó đã lỗi thời rồi.
Đừng nói gì đến Iphone, IPod,
IPad, “Ai béo” hay Twitter gì cả, ngay với cái điện thoại di động mà tôi cũng
đã cảm thấy lúng túng rồi. Trước kia, tôi cũng nghe lời khuyên của nhiều người,
sắm một cái điện thoại cầm tay rồi để trong xe chứ chẳng có cầm trên tay hay bỏ
trong túi bao giờ cả. Thấy cứ phải cho người khác số điện thoại, phải nhận điện
thoại vào những giờ mình chẳng muốn chút nào như đang lái xe và nhứt là mất giờ
vì phải lịch sự hầu chuyện vào những lúc cần làm việc, cho nên chỉ sau một thời
gian ngắn, chiếc điện thoại di động của tôi được cho vào ngăn kéo để trở thành
một “bất động sản”. Mới đây, có người nhờ tôi cầm giùm cái điện thoại di động tối
tân của họ và trả lời nếu có người gọi.Thế là khi điện thoại reo, tôi đã lúng ta
lúng túng và bấm lung tung trên các ký hiệu mà chẳng nhận được tín hiệu nào cả.
Tôi vẫn biết rằng ngày nay có
đến 60 phần trăm dân số trong hơn 6 tỷ người trên thế giới đang sử dụng điện
thoại di động. Tôi cũng biết rằng điện thoại di động là phương tiện liên lạc
không thể thiếu được trong thời đại “a còng” này. Nhưng tôi vẫn cứ “ngoan cố”
không sử dụng nó mà vẫn không thấy “chết thằng tây” nào cả.
Đây có lẽ không phải “lỗi tại
tôi mọi đàng” đâu. Theo một vài cuộc nghiên cứu thì thế hệ ‘baby boomer’ của
tôi, nói theo kiểu Tây, là thế hệ có nhiều người ngoan cố, chậm tiến và kém
thích nghi với ba cái chuyện vi tính và internet. Có lẽ vì thế hệ tôi vẫn còn
thấy “nguyên si” giá trị của lối sống “tiền vi tính”, lại không lanh tay lanh mắt
như đàn em “hậu vi tính” nên trong khi vẫn quý trọng cách thông tin giữa người
với người hơn là nói chuyện với những cái máy, tôi vẫn biết mình phải cố gắng
chạy theo những tiện nghi do cuộc cách mạng thông tin mang lại. Nhưng không phải
cái gì tôi cũng chạy theo. Tôi lý luận, này nhé, mỗi năm, cùng lắm xảy ra một
vài trường hợp khẩn cấp, tôi chỉ mất khoảng nửa tiếng dồng hồ để đi tìm điện
thoại công cộng và tốn tối đa một đồng là xong ngay. Không phải là “trùm sò”,
nhưng tôi thấy mỗi tháng mình cũng tiết kiệm được vài chục đồng. Rồi lại không
bị cái cảm giác ngay ngáy lo có ai gọi khi lỡ để quên cái “của nợ” ở nhà. Vả lại
đã có email và điện thoại nhà rồi thì với cuộc đời đang “đi dần vào hưu trí”
như tôi có còn chuyện gì để gọi là khẩn cấp ngoại trừ gọi xe cứu thương! Mà gọi
ba số không thì luôn luôn miễn phí. Thế là cái điện thoại đi động tượng trưng
cho “nền văn minh nhân loại” này bị loại ra khỏi đời sống của tôi.
Dù là thành viên của 40 phần
trăm trong cộng đồng nhân loại không xài điện thoại di động, nhưng ít ra tôi
cũng còn hơn MC Nguyễn Ngọc Ngạn. Tôi nghe nói ông MC nổi tiếng này không những
không sử dụng điện thoại di động, mà cũng chẳng màng đến email hay Internet gì
cả. Riêng tôi, cũng còn biết liên lạc bằng email và gõ vào Google để đọc tin tức
và tìm kiếm tài liệu. Dù sao, tôi thấy cũng “hãnh diện” chứ không đến nỗi “mất
mặt” khi vẫn tiếp tục ở trong hàng ngũ những người “lạc hậu” như ông MC Nguyễn Ngọc Ngạn. Cho dẫu tỷ phú trẻ Mark
Zuckerberg, người sáng lập “Facebook” có được tạp chí Time chọn làm “Người của
năm 2010” vì đã có công thiết lập mạng lưới này để cho 600 triệu người trên thế
giới có thể “tự khẳng định” bằng cách đưa “hình ảnh” của mình cho người khác
xem, tôi vẫn cương quyết không chường cái “bản
mặt” chẳng mấy đẹp đẽ và vẻ vang của mình ra.
Dĩ nhiên, ngoài chuyện ngoại
hình “kém” tôi còn có lý do khác của tôi. Mới đây, tôi có đọc được một bài viết
của ký giả Philip Adams trên phụ trương “The Weekend Australian Magazine” của
báo The Australian số ra cuối tuần qua. Tác giả suy nghĩ về “cái mặt” của con người nhân cái chết của
trùm khủng bố Osama Bin Laden.
Theo tác giả, trước khi bị các
lực lượng đặc biệt của Hoa kỳ bắn nát, gương mặt của Osama Bin Laden trông chẳng
khác nào một ông thánh. Cứ thử tưởng tượng chẳng biết gì về ông và nhìn lại những
bức hình của ông xem. Mặc dù là một người bị thù ghét nhứt trong lịch sử nhân loại,
không kém thì cũng ngang ngửa với những tay đồ tể như Hitler, Stalin và Pol Pot,
gương mặt của ông trông bình thản, đầy vẻ cảm thông và ân cần. Phải nói ông có
đôi mắt hiền từ. Cái miệng của ông thì khỏi nói, dường như nó được nhào nặn để
chỉ nói những lời tế nhị. Nói cho cùng, thoạt nhìn bên ngoài, lẽ ra từ nơi ông
chỉ toát ra cung cách của một người nhân từ, nhẫn nhục, hiền lành, dễ thương.
Dĩ nhiên, người ta cũng có thể nói như thế về các tay đồ tể Hitler, Stalin và
Pol Pot.
Nhưng tác giả Philip Adams nói
rằng gương mặt của Osama Bin Ladan cũng gợi lại cho ông một gương mặt nổi tiếng
trong cuốn phim tài liệu về thời kỳ quân phiệt tại Hy lạp từ năm 1967 đến năm
1974, thường được mệnh danh là “chế độ của
các đại tá Hy lạp”. Không có bất cứ bức “Icon”
Hy lạp nào của thế kỷ 18 trông thánh thiện hơn nhân vật chính trong cuốn phim
tài liệu này. Nhưng trong cuộc phỏng vấn được thu hình, nhân vật này thú nhận rằng
ông đã từng đứng đầu bộ máy tra tấn của chế độ quân phiệt. Ông nói: “Tôi đã từng làm cho bao nhiêu người thành
điên khùng. Tôi đã biến họ thành cỏ cây.”
Thông thường, “trông mặt mà bắt hình dong”, tướng mạo
và nhứt là khuôn mặt có thể thể hiện tính tình, tức một phần nội tâm và ngay cả
cái bí ẩn của con người. Ai cũng muốn tạo một ấn tượng tốt khi lần đầu tiên gặp
gỡ với người khác, nhứt là khi đi trình diện phỏng vấn để xin việc làm. Tuy
nhiên, lầm lẫn về “ngoại diện” cũng là chuyện bình thường. Bên kia một khuôn mặt
lạnh lùng hay dữ dằn có khi lại tiềm ẩn một vị thánh. Nhưng cũng có khi một vị
thánh lại xuất hiện dưới hình dáng của một người bệnh hoạn hay điên loạn. Đây
là cái nhìn của danh họa Tây ban nha El Greco vào thời Văn nghệ Phục hưng tại
Âu châu vào thế kỷ 16, 17. Để vẽ các thánh, ông thường dùng những người điên trong
bệnh viện tâm thần Toledo làm người mẫu. Dĩ nhiên, ngày nay các chuyên gia tâm
lý có thể chứng minh cho chúng ta thấy rằng không thiếu những người tự cho là
có “thị kiến” hay được “thần khải” trong thực tế chỉ là những người mắc bệnh
hoang tưởng. Do đó, cứ “trông mặt mà bắt
hình dong” thì hẳn phải bé cái lầm. Osama Bin Laden là trường hợp cụ thể nhứt.
Việc lực lượng đặc nhiệm Hoa kỳ
hạ sát ông tại Abbottabad, Pakistan hôm
1/5/11 cũng gợi lại việc Israel bắt giữ tay đồ tể đức quốc xã Adolf Eichmann tại
Argentina hồi năm 1960. Eichmann trông giống như một nhân viên kế toán tỉnh lẻ
hơn là một đồ tể khát máu.
Trường hợp gương mặt của
Hitler có lẽ cũng thế thôi. Trong cuốn phim có tựa đề “Swastika” được thực hiện hồi năm 1973, đạo diễn Úc Philippe Mora đã
làm cho cả thế giới phải sửng sốt và ngay cả phẫn nộ khi mô tả gương mặt hiện
thân của Sự Dữ như một người đàn ông gương mẫu vui đùa hạnh phúc bên cạnh người
tình Eva và những con chó của ông tại tổ uyên ương ở Berchtesgaden. Nói gì đến
nụ cười “nhân ái” của Mao Xếnh Xáng, kẻ đã xây dựng quyền lực của mình trên thây
chết của không dưới 30 triệu đồng bào ruột thịt. Nói gì đến bộ mặt trông chẳng
có gì là “độc ác” của lãnh tụ Khmer Đỏ, Pol Pot, người đã sát tế gần 2 triệu đồng
bào của mình trên bàn thờ những “cánh đồng giết người”. Nói gì đến gương mặt của
kẻ tự xưng là cha già dân tộc, con người “khiêm tốn nhường bao” và “ai yêu các
cháu nhi đồng bằng…”, nhưng lại là tội đồ gây ra bao nhiêu đau thương tang tóc
cho dân tộc Việt nam.
Quả thực, diện mạo bên ngoài không
thể nói hết những bí ẩn trong trái tim con người. Danh họa Leonardo da Vinci của
Ý cũng đã từng lầm lẫn như thế khi sáng tác bức tranh nổi tiếng “Bữa tiệc ly”.
Sau khi đã vẽ xong gương mặt của Chúa Giêsu và 11 vị tông đồ ngồi đồng bàn với
Ngài, danh họa mới đi tìm người làm mẫu để họa lại gương mặt của Giuda, kẻ bán
Thày. Mất một thời gian tìm kiếm, cuối cùng ông đã gặp được một người mà ông
nghĩ sẽ là người mẫu thích hợp nhứt để ông họa lại gương mặt của Giuda. Sau một
hồi thăm hỏi chuyện vãn, Leonardo da Vinci mới khám phá ra rằng người mà ông mời
làm người mẫu để vẽ chân dung của Giuda cũng chính là người đã từng ngồi trước
mặt ông để ông họa chân dung của…Chúa Giêsu!
Thì ra, theo Philip Adams, “những gương mặt không tiết lộ cho chúng ta
nhiều điều. Chức năng chính của gương mặt là để giúp nhận diện chúng ta cũng
như các dấu tay. Dĩ nhiên, đôi khi gương mặt hoàn toàn hợp với con người như
trường hợp một Đức Đạt Lai Lạt Ma, một Richard Nixon, một Nelson Mandela hay một
Donald Trump”. Nhưng, nói chung, giữa gương mặt và con người thực có khi
khoảng cách là cả một trời một vực.
Ngày nay, khoảng cách ấy lại
càng dễ được kéo dài thêm. Thời tôi còn để chỏm, đàn bà con gái nào “tô son
trét phấn” một chút đều bị liệt vào hạng người không đàng hoàng. Ngày nay,
trang điểm là chuyện tự nhiên và được xem là một điều phải làm đối với phái nữ.
Không những thế, người ta còn cắt xén, “sửa sang” cho khuôn mặt được xinh đẹp
hơn, ngay cả được thay hình đổi dạng hoàn toàn là khác. Khoa học đã tiến đến độ
“ghép mặt”, nghĩa là đắp lên gương mặt méo mó hay bị tàn phá của mình bằng
gương mặt của một người hoàn toàn xa lạ chẳng phải là chuyện khoa học giả tưởng
hay trong phim ảnh, sân khấu nữa.
Chuyện này gợi lên cho tôi một
ý tưởng: con người thích mang khuôn mặt của một người khác hơn của chính mình. Mang thôi chứ không hẳn muốn trở thành người
khác. Khuôn mặt của người khác ấy có thể là khuôn mặt của một nhân vật tiểu
thuyết, một anh hùng dân tộc, một tài tử điện ảnh, một nhà trí thức. Trong xã hội
mà mọi thứ đều có thể “giả” được như Việt nam chẳng hạn, người ta cũng thấy
nhan nhản những con người “giả”. Giả nhiều nhứt hẳn phải là những người đeo mặt
nạ trí thức. Cái cốt thì vẫn là “dốt đặc cán mai”, nhưng bằng cấp thì đầy người,
tước hiệu gì cũng có.
Nhưng trong các thứ giả, lố bịch
nhứt vẫn là “giả hình”, tức đeo vào
chiếc mặt nạ đạo đức và tự cho mình có quyền phê phán người khác. Nhân vụ ông
Dominique Strauss-Kahn, tổng giám đốc Quỹ Tiền Tệ Thế Giới bị bắt giữ vì tội tấn
công tình dục một nữ nhân viên phục vụ trong một khách sạn ở Hoa kỳ, tạp chí
Time số ra tuần này đã dành trang chủ để nói về “tình dục, dối trá, kiêu căng”
của những người đàn ông có quyền lực. Nhân tiện, tờ báo cũng nói đến những người
“không nhìn thấy cái đà trong mắt mình,
mình chỉ nhìn thấy cái rác trong mắt kẻ khác”. Báo Time viết rằng ít ra “ông Strauss Kahn không bị tố cáo vì dụ dỗ vợ
của người bạn thân mình như cựu nghị sĩ John Ensigh, hoặc bao che cho các cô
gái điếm mà vẫn cứ đi truy tố các đường giây bán dâm như cựu thống đốc New York
Eliot Spitzer, hoặc như cựu chủ tịch Hạ
viện Newt Gingrich chối quanh về một vụ tình ái lăng nhăng mà vẫn tìm cách bãi
nhiệm một tổng thống chỉ vì ông này cũng
chối quanh về một vụ tình ái”.
Bởi vậy, dù đã năm lần bảy lượt
tìm hiểu về Facebook, rồi cũng có lần suýt định nhờ xấp nhỏ trong nhà “đăng ký”
làm thành viên của Facebook tôi vẫn thấy mình “không thể là không thể”. Mặt mũi thì đã chẳng bằng ai mà tâm hồn
thì lấm lem lấm lọ, chẳng có gì đáng để cho thiên hạ dòm. “Đẹp khoe xấu che”
thì tôi không thích. Thôi đành làm một người “không chân dung” nhưng thành thật vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét