Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

Chạy Trời Không Khỏi Nắng

                        

                                                                                       Chu Thập 
15/3/11

Sáng Chúa nhựt vừa rồi, 13 tháng 3, tôi đến nhà thờ với cõi lòng nặng trĩu những hình ảnh khủng khiếp của trận động đất và sóng thần tại Nhựt bản. Những ý nghĩ ngổn ngang dằn xóc tâm hồn tôi. Lá thư của một linh mục Việt nam đang làm việc tại Nhựt bản gởi đến trang mạng Vietcatholic chợt lôi kéo sự chú ý của tôi. Trong lá thư, vị linh mục viết rằng không có một người Công giáo Việt nam nào tại Nhựt bản “bị thương tích hay thiệt hại gì do cơn địa chấn gây ra”. Ông khẳng định: “Chúa luôn thương yêu và gìn giữ chúng con một cách đặc biệt.” (x. Vietcatholic 13/3/2011)
Tôi liền nghĩ đến số phận của hằng chục ngàn người Nhựt và ngay cả một linh mục người Canada làm việc tại Sandai. Phải chăng họ bị thiệt mạng vì họ không được Thiên Chúa yêu thương và gìn giữ một cách đặc biệt? Phải chăng Thiên Chúa cũng phân biệt đối xử với con người?
Nghĩ đến chuyện Chúa “thương”, tôi cũng liên tưởng đến bài viết có tựa đề “Ngộ đạo đất trời” của nhà văn Tràm Cà Mau đăng trên báo “Calitoday”, ấn bản điện tử. Trong bài viết, nhà văn này thắc mắc về những mẩu cáo phó của người Công giáo Việt nam đại khái như: “Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa “thương” gọi về vào ngày, tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi…”  Nhà văn này tự hỏi: “Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?” (x. Calitoday 11/3/2011)
Mỗi ngày chúa nhựt, tôi đến nhà thờ để cầu nguyện và cố tìm ra một chút ánh sáng cho cõi lòng âm u tăm tối của tôi khi đứng trước thiên tai, nghịch cảnh xảy ra cho con người. Tôi không dám nói đến tình thương của Chúa khi bảo rằng tôi đã được Ngài “yêu thương và gìn giữ” một cách đặc biệt để tôi không thiệt mạng trong một tai ương. Nói như thế tôi sợ mình xúc phạm đến chính Chúa và với tha nhân: xúc phạm đến Chúa vì cho rằng Ngài cũng phân biệt đối xử như con người, xúc phạm đến người khác vì ngầm cho rằng tôi được Chúa yêu thương và gìn giữ đặc biệt vì tôi là người “lương thiện” hơn kẻ khác.
Cũng may cho tôi, vào giữa lúc tôi đang ngụp lặn trong mớ bong bong của những ý nghĩ ngổn ngang, thì vị linh mục chính xứ của nhà thờ St Ives, Bắc Sydney, đã hướng những suy nghĩ của tôi đến một hướng khác. Dẫn giải về câu chuyện sa ngã của ông bà nguyên tổ Adam và Eva, qua đó hai ông bà muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, vị linh mục dòng kín này kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
“Sau khi đã thành công mỹ mãn trong việc “cloning”, tức sản sinh con người theo phương pháp vô tính, các nhà khoa học trên thế giới bèn quyết định tụ tập nhau lại và đến gặp gỡ Thiên Chúa. Họ nói với Ngài:
“Thưa Ngài, chúng tôi đã có thể tự sản sinh mà không cần được tạo thành nữa, cho nên kể từ nay, Ngài nên chấm dứt những hoạt động của Ngài. Chúng tôi sẽ thay Ngài tiếp tục công việc đó cho muôn loài.”
Thiên Chúa trả lời:
“Tốt lắm, nhưng như vậy, ta đề nghị các người hãy “xóa bàn làm lại”. Chúng ta trở lại thời điểm ban đầu, nghĩa là trước khi ông bà Adam và Eva được tạo thành.”
Các nhà khoa học liền đồng ý và bắt tay vào công việc ngay vì giờ đây việc tạo ra con người từ bụi đất chẳng khó khăn gì. Họ bắt đầu công việc bằng cách lấy tay, bốc một nắm bụi đất. Nhưng Thiên Chúa bảo:
“Nè, không được lấy bụi đất của Ta chớ! Các người hãy tự mình làm ra bụi đất đi!”
Kể câu chuyện đó xong, vị linh mục kết luận rằng mãi mãi, dù có tiến bộ đến đâu, con người, vì được tạo thành từ tro bụi,  cũng vẫn có những giới hạn và bất toàn của mình. Tạp chí Time ở trang bìa số ra ngày 21 tháng 2 vừa qua, đã loan báo một cách chắc nịch rằng “2045 là năm con người trở thành bất tử”. Tôi không hy vọng có thể sống đến năm đó để trở thành bất tử nhờ có được một “trí khôn siêu nhân” như tạp chí Time khẳng định. Tôi chỉ biết chắc chắn một điều là dù cho khoa học có tiến bộ đến đâu, những bất trắc trong cuộc sống vẫn mãi là một hằng số. Chạy trời vẫn không khỏi nắng.
Nhìn lại trận động đất, sóng thần và hậu quả trực tiếp là sự rò rỉ phóng xạ từ các nhà máy năng lượng hạt nhân tại một nước tân tiến vào bậc nhứt thế giới là Nhựt Bản, tôi tin như “kinh tin kính” rằng con người có mưu sự đến đâu cũng vẫn không tránh khỏi những điều bất ngờ và rủi ro trong cuộc sống. Tất cả thiên tai, nhân họa không ngừng xảy ra trong lịch sử nhân loại là để nhắc nhở con người về thân phận bất toàn và giới hạn của nó.
Phải chăng không chính từ cái ý thức về sự mong manh bất toàn của kiếp người và của thế giới hữu hình này mà con người mới hướng đến thế giới vô hình và những giá trị vĩnh hằng để từ đó nỗ lực làm cho thế giới này trở thành một nơi đáng sống hơn?
Văn hào Pháp gốc Rumani Eugene Ionesco qua đời năm 1994 có viết rằng trong lịch sử nhân loại, không có một nền văn minh hay văn hóa nào mà cách này hay cách khác không nói đến cái nhu cầu phải có thiên đàng, một thế giới bên kia lịch sử. Không có tôn giáo nào mà không xem cuộc sống mỗi ngày như một nhà tù. Không có một triết lý hay ý thức hệ nào mà không nghĩ rằng chúng ta đang sống trong vong thân…Nhân loại luôn luyến nhớ về tự do, về sự sống đích thực, về sự viên mãn, về ánh sáng. (Philip Yancey, Rumors of Another World, Zondervan, Grand Rapids, Michigan, USA 2004, trg 159)
Chủ nghĩa cộng sản đã chối bỏ thế giới bên kia lịch sử ấy. Niềm tin tôn giáo đương nhiên bị loại trừ. Cái thiên đàng duy nhứt mà những người cộng sản đã muốn dùng vũ lực để thiết lập trên trần gian đã xuất hiện như thế nào thì nhân loại ngày nay đã rõ. Như văn hào Nga Fiodor Dostoyevski đã tiên đoán “không có Thiên Chúa, mọi sự đều được phép”, những người cộng sản Nga đã tự cho mình được phép phạm những tội ác mà hậu quả vẫn còn di hại cho tới ngày nay.
Chối bỏ thế giới bên kia, con người tự cho phép mình làm mọi điều ác. Trái lại, tin ở thế giới bên kia, con người không những có thể đứng vững trong mọi gian lao thử thách, mà còn góp phần làm cho thế giới này tốt đẹp hơn. Đây là điều đã được chứng minh trong cuốn sách có tựa đề “To End All Wars” (để chấm dứt mọi cuộc chiến tranh). Một phần trong cuốn sách này đã được dựng thành cuốn phim nổi tiếng có tựa đề “The Bridge on the River Kwai” (Cây cầu sông Kwai) mà nhiều người Việt nam đã từng được xem tại Sài gòn trước năm 1975.
Cuốn sách kể lại cuộc đời phi thường của ông Ernest Gordon, một sĩ quan Anh bị quân đội Nhựt bản bắt làm tù binh khi được 24 tuổi. Là một kỹ sư công binh, ông Gordon bị quân đội Nhựt gởi đến xây dựng đoạn đường sắt nằm ở biên giới Thái lan- Miến điện để từ đó xâm chiếm Ấn độ. Trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt và dã man, đã có khoảng 80 ngàn tù binh bị thiệt mạng khi tham gia xây dựng đoạn đường sắt; trung bình cứ mỗi dặm đường rầy có 383 người bỏ mạng.
Ernest Gordon không thoát khỏi số phận ấy. Suy dinh dưỡng, mắc đủ thứ bệnh, cuối cùng ông hoàn toàn bị tê liệt. Ông được cho vào “Nhà tử thần” để chờ chết. Trại tù do quân đội Nhựt bản dựng lên không có mục đích nào khác hơn là để thí nghiệm sức chịu đựng của con người. Thể chất bị tàn phá, mà tinh thần và đạo đức của tù nhân cũng suy sụp. Tù nhân có thể giết nhau vì một cục đường. Con người buông chiều theo bản năng như thú vật. Hận thù là động lực duy nhứt để con người sống còn.
Vậy mà phép lạ đã xảy ra. Số là một buổi sáng nọ, khi kiểm soát các dụng cụ lao động của tù nhân, cai tù thấy mất một cái xẻng. Vì không ai nhận là đã lấy hay dấu cái xẻng, cai tù liền thét lên: “Mọi người phải chết”. Bỗng từ trong đám tù nhân, một người đứng ra nhận tội: “Tôi có lấy cái xẻng”. Anh liền bị bắn ngay tại chỗ. Chiều hôm đó, các dụng cụ được kiểm soát lại một lần nữa. Người ta nhận thấy có sai sót trong lần kiểm tra trong buổi sáng, bởi vì không có cái xẻng nào bị mất cả. Kể từ giây phút đó, các tù nhân đã bắt đầu thay đổi cách đối xử với nhau. Người chết được tống táng một cách xứng đáng. Những người ốm đau được anh  em bạn tù chăm sóc nhiều hơn. Sau vài tuần lễ được anh em tận tình săn sóc, sức khỏe của Ernest Gordon được hồi phục; ông bắt đầu đi lại được. Biết ông là người có học, nhứt là đã từng học triết, các bạn tù xin ông giúp tổ chức một nhóm để học hỏi về đạo đức. Những cuộc thảo luận nhóm dần dần xoay quanh vấn đề chuẩn bị chết, bởi vì đây là vấn đề cấp bách nhứt trong trại. Ernest Gordon cố gắng moi óc nhớ lại những bài học căn bản về đạo đức để trả lời cho các câu hỏi của các tù nhân khác. Trong hằng bao nhiêu năm qua, ông sống gần như một người vô thần. Nhưng giờ đây, ông phải nhìn nhận: “Niềm tin phát sinh khi con người không còn một niềm hy vọng nào khác ngoài Thiên Chúa.” Ông được anh em bạn tù xem như một tuyên úy. Họ dựng lên một nhà thờ nhỏ và mỗi chiều tập trung lại để cầu nguyện. Các cuộc thảo luận nhóm cũng dần dần biến thành một thứ “đại học trong rừng”. Bất cứ ai có chuyên môn nào cũng đều được mời đến chia sẻ cho anh em khác. Từ đạo đức, lịch sử, triết học, kinh tế, toán học, khoa học, vạn vật học đến sinh ngữ…môn nào cũng đều có “giáo sư” và mỗi giáo sư đều soạn bài trên bất cứ mảnh giấy vụn nào họ tìm được. Một số họa sĩ cũng xuất hiện để dùng than và đá vụn nghiền ra để làm thuốc vẽ. Hai nhà thực vật học cũng góp phần trồng được một ngôi vườn với nhiều thứ cây thuốc. Một số khác nữa dùng tre để chế tạo những chiếc đàn phong cầm và tổ chức được cả một dàn nhạc. Ai đó nhờ trí nhớ phi thường đã có thể ghi xuống những bản hòa tấu của Beethoven và Schubert và không bao lâu, trại đã có thể tổ chức được những buổi hòa tấu, vũ ballet hay diễn kịch.
Tác phẩm “To End All Wars” của ông Ernest Gordon mô tả sự biến đổi của các cá nhân trong trại tù, một sự biến đổi lạ lùng đến nỗi khi được quân đội đồng minh giải phóng, các tù nhân đã đối xử một cách tử tế với những cai tù đã từng hành hạ mình. Về phần ông, Ernest Gordon đã trở thành một mục sư và làm tuyên úy tại Đại học Princeton, Hoa kỳ cho đến khi qua đời năm 2002 (sđd trg 173 – 176)
“Niềm tin phát sinh khi con người không còn một niềm hy vọng nào khác ngoài Thiên Chúa”. Giữa cái thế giới tù đầy cùng cực trong rừng già ở biên giới Thái-Miến vào đầu thập niên 1940, các tù nhân đã cảm nhận được thế giới vô hình bên kia lịch sử. Từ gian lao thử thách, ý thức được những bất toàn và giới hạn của mình, con người cố vươn lên một thế giới tốt đẹp hơn. Tin vào một thế giới như thế không có nghĩa là mong đợi rằng sau  cuộc sống khốn khổ ở dương thế này, con người sẽ được đền bù bằng vô số của cải trong thế giới mai hậu, mà chính là ý thức rằng cái thế giới tốt đẹp ấy là thực tại cao cả nhứt có thể cảm nếm và được thực hiện ngay tại thế giới này. Tôi nghĩ đến tình liên đới và vô số những nghĩa cử mà thế giới đang cố gắng bày tỏ với nhân dân Nhựt bản trong cơn hoạn nạn này. Máu chảy ruột mềm, giữa cơn hoạn nạn, con người luôn xích lại gần nhau. Cử chỉ ấy nằm sâu trong bản tính tự nhiên của con người. Nó vừa thể hiện tính mong manh, mỏng giòn của kiếp người, vừa mời gọi con người vươn lên khỏi những phù phiếm của cuộc đời để hướng đến những giá trị vĩnh hằng.
Buổi sáng Chúa nhựt vừa qua, ra khỏi nhà thờ, tôi chưa hẳn đã trở thành một con người mới hoàn toàn như các tù nhân trong trại tù ở biên giới Thái- Miến trên đây. Nhưng ít nhứt, cũng như nhà văn Tràm Cà Mau, tôi bỗng “ngộ đạo đất trời” để từ “tro bụi” của cuộc đời chóng qua này, tôi vẫn có thể nhận ra được đâu là những giá trị vĩnh hằng của thế giới bên kia như công bằng, hòa bình, liên đới, yêu thương, tha thứ, và phục vụ…













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét