Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Lest We Forget!



                                                                            Chu Thập
Anzac Day 2011


Tôi vẫn nhớ mãi ngày thi nhập quốc tịch Úc.  Tôi tưởng sẽ phải trải qua một cuộc sát hạch gay go lắm. Nhưng viên chức bộ di trú chỉ hỏi tôi một câu: “Nếu đi ra nước ngòai và gặp rắc rối cần được trợ giúp pháp lý, ông sẽ nhờ ai?”  Dĩ nhiên, tôi đã trả lời là tôi phải tìm đến tòa lãnh sự hay sứ quán Úc.
Câu hỏi này không khỏi gợi lại cho tôi câu nói của cố tổng thống Hoa kỳ John F. Kennedy với giới trẻ Mỹ: “Đừng hỏi tổ quốc phải làm gì cho bạn và phải tự hỏi bạn phải làm gì cho tổ quốc.” Tôi thường lấy câu nói này để tự xét mình. Thú thật, cho đến nay, sau nhiều năm làm “công dân” Úc, tôi thấy mình chưa làm được gì cho quê hương mới. Trong khi đó, chỉ vừa đưa tay ra “thề thốt” để trở thành một công dân Úc, tôi hưởng được không biết bao nhiêu quyền lợi, trong nước cũng như khi ra nước ngoài. Ngẫm nghĩ như thế cho nên có lúc tôi cũng thấy thẹn với lương tâm. Do đó, tôi thường tự nhủ: nếu không làm được gì cho quê hương mới, thì ít nhứt tôi cũng phải có thể giới thiệu nước Úc cho người khác. Đây là động lực thúc đẩy tôi phải tìm hiểu về đất nước của mình.
Về địa lý, tôi chủ trương học hỏi bằng “chân”. Thay vì tốn tiền đi du lịch nước ngoài, tôi thường làm những chuyến đi thăm thú trong nước. Với cái lục địa già nhứt trái đất này, có bỏ cả một đời người trăm tuổi để làm một vòng, cũng chưa chắc đã thực hiện được. Có biết bao nhiêu nơi để thăm viếng. Có biết bao nhiêu chỗ để tìm hiểu và học hỏi. Có biết bao nhiêu cảnh đẹp để ngắm nhìn và thưởng thức.
Cũng may cho tôi, không giống như địa lý nước Úc, chiều dài lịch sử của quê hương mới lại ngắn chủn. Tôi không cần phải trở lại trường để dùi mài “kinh sử”. Chỉ cần một thời gian ngắn cũng đủ để lướt qua những biến cố lịch sử đáng chú ý của đất nước.
Cũng như mọi quốc gia, dù chỉ mới khai sinh chưa đầy hai trăm năm, Úc đại lợi cũng có một số biến cố để kỷ niệm. Tôi đặc biệt chú ý đến ngày Anzac, 25 tháng Tư. Năm nay, tại nhiều nơi, mặc dù mưa suốt ngày, vẫn có nhiều người tham dự các nghi thức tưởng niệm vào lúc hừng đông và cuộc diễn hành kéo dài cho đến trưa. Tôi vẫn cứ thắc mắc: thông thường ngày lễ quốc khánh quan trọng nhứt của một quốc gia là những kỷ niệm về các cuộc chiến thắng. Nhưng với quê hương mới, ngày kỷ niệm quan trọng nhứt trong năm lại là ngày kỷ niệm một chiến bại. Đọc lại lịch sử, tôi thấy rằng năm 1914, khi Thế chiến Thứ Nhứt bùng nổ, chính phủ Liên bang Úc chỉ mới thành hình được đúng 13 năm. Chính phủ mới xem ra rất “hăm hở” trong việc nói lên tiếng nói của mình và chen chân vào cộng đồng thế giới. Thế chiến Thứ Nhứt quả là cơ hội ngàn vàng. Năm 1915, các lực lượng quân sự Úc và Tân Tây Lan phối hợp với nhau để mở một cuộc hành quân “viễn chinh” để gọi là chiếm đóng bán đảo Gallipoli tận bên Thổ nhĩ kỳ với mục đích  mở eo biển Dardanelles ở miền Tây Bắc nước này ra cho các lực lượng hải quân của Đồng minh. Mục tiêu cuối cùng của chiến dịch là chiếm đóng Constantinople, nay là Istanbul, thủ đô của đế quốc Thổ, một đồng minh của Đức.
Các lực lượng của Úc và Tây tây lan đã đổ bộ xuống Gallipoli ngày 25 tháng Tư. Cứ tưởng sẽ chiến thắng một cách dễ dàng, không ngờ quân đội Úc và Tây tây lan đã gặp sức kháng cự mãnh liệt của quân Thổ. Chiến dịch dự trù là một cuộc hành quân chớp nhoáng đã kéo dài đến 8 tháng. Cuối năm 1915, các lực lượng đồng minh đành phải rút lui sau khi hai bên đã chịu nhiều tổn thất nặng nề về nhân mạng. Trên tám ngàn binh sĩ Úc đã hy sinh. Tin tức về cuộc đổ bộ xuống Gallipoli đã tác động mạnh trên tâm lý của người dân Úc và 25 tháng Tư hằng năm đã trở thành ngày người Úc tưởng niệm sự hy sinh của những người đã ngã gục trong chiến tranh và trong bất cứ cuộc chiến nào có người Úc tham gia.
Với tôi, sự kiện buổi lễ tưởng niệm được cử hành vào lúc hừng đông là điều đáng suy nghĩ nhứt. Hừng đông ngày 25 tháng 4  năm 1915 là lúc quân đội Úc và Tân tây lan đổ bộ xuống bán đảo Gallipoli. Giây phút tranh tối tranh sáng là thời điểm thuận tiện nhứt để mở cuộc tấn công. Trở về sau Đệ Nhứt Thế chiến, các cựu chiến binh cũng dùng giây phút này để ngồi bên nhau và hồi tưởng lại những kỷ niệm chiến đấu.
Với riêng tôi, hừng đông là giờ phút của tỉnh thức: tỉnh thức để không bao giờ quên công ơn của bao nhiêu người đã hy sinh xương máu cho đất nước; tỉnh thức để luôn nhớ đến chính nghĩa và những lý tưởng cao đẹp khiến cho bao nhiêu người đã hy sinh cho tổ quốc và nhứt là tỉnh thức để đừng bao giờ quên “tội ác” của những người gây ra chiến tranh. Đây là ý tưởng thường đến với tôi mỗi khi dừng lại ở bất kỳ đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong nào trên đất Úc và ngẫm nghĩ về hàng chữ “Lest we forget” (Để chúng ta không quên): không quên sự hy sinh của các chiến sĩ, không quên lý tưởng cao đẹp và không quên “tội ác” của chiến tranh.
Con người dễ quay lại với tội ác, lập lại tội ác bởi vì họ dễ quên tội ác. Có lẽ đây là điều mà các cuộc tưởng niệm về chiến tranh trong lịch sử của nhân loại cũng như trong từng quốc gia muốn nhắc nhở cho hậu thế. Thế giới sẽ không bao giờ quên hai cuộc đại chiến, cuộc sát tế người Do thái do Đức quốc xã chủ xướng và hai trái bom nguyên tử dội xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, Nhựt Bản. Và dĩ nhiên, thế giới cũng sẽ mãi mãi nhớ đến tội ác mà chủ nghĩa cộng sản đã gây ra cho nhân loại trong thế kỷ 20 vừa qua. Dửng dưng trước tội ác là mầm mống dẫn đến tội ác.
Đây là tiếng kêu cảnh tỉnh của những người đã từng sống sót từ cuộc sát tế của Đức quốc xã. Trong số này đáng chú ý nhứt là tiếng kêu của nhà văn Elie Wiesel, một người Do thái trở về từ các trại tập trung của Đức quốc xã trong thời Đệ Nhị Thế chiến. “Thinh lặng và dửng dưng là tội ác lớn nhứt trong các tội ác.” Lời phát biểu này của ông Wiesel là một tóm lược đầy đủ nhứt về cái nhìn của ông về cuộc sống và là sợi chỉ xuyên suốt được nhìn thấy trong các sáng tác của ông. Ông là tác giả của 36 cuốn sách bàn về Do thái giáo, cuộc sát tế người Do thái và trách nhiệm luân lý của tất cả mọi dân tộc phải chống lại hận thù, kỳ thị chủng tộc và diệt chủng.
Chào đời năm 1928 tại một làng nhỏ ở Rumani, ông Wiesel đã trải qua một tuổi thơ tiêu biểu cho nhiều trẻ em Do thái trong thời Đệ Nhị Thế chiến. Năm 1944, toàn bộ gia đình ông bị đầy vào trại tập trung. Trong tác phẩm có tựa đề “Đêm”, ông ghi lại: “Tôi sẽ không bao giờ quên được cái đêm ấy, cái đêm đầu tiên trong trại tập trung đã biến cuộc đời của tôi thành một đêm dài…Tôi sẽ không bao giờ quên được làn khói ấy. Tôi sẽ không bao giờ quên được những gương mặt nhỏ bé của trẻ em, mà tôi thấy thân xác đã biến thành những lọn khói bay lên một bầu trời trong xanh.
Tôi sẽ không bao giờ quên được những làn khói đã vĩnh viễn đốt cháy niềm tin của tôi.
Tôi sẽ không bao giờ quên được sự thinh lặng của đêm tối đã vĩnh viễn cướp đi khát vọng muốn sống của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được những giây phút đã giết chết Thiên Chúa của tôi, linh hồn tôi và biến những giấc mơ của tôi thành tro bụi. Tôi sẽ không bao giờ quên những điều đó, ngay cả nếu như tôi có bị kết án phải sống lâu như chính Thiên Chúa. Không bao giờ.”
Từ đó, ông đã dành cả cuộc đời để “tranh đấu” hầu không một ai quên đi những gì đã xảy ra cho người Do thái.
Ông đã từng bị đầy trong nhiều trại tập trung của Đức quốc xã. Tháng Tư 1945, khi các trại tập trung được giải thoát, ông sống vài năm trong một viện mồ côi tại Pháp và sau đó bắt đầu theo học tại Đại học Sorbonne ở Paris. Dưới ảnh hưởng của nhà văn Francois Mauriac, ông đã phá vỡ lời nguyền phải giữ thinh lặng và bắt đầu viết lại kinh nghiệm đã trải qua trong các trại tập trung. Ông được trao tặng giải thưởng Nobel văn chương.  Ông sang Hoa kỳ và được bổ nhiệm làm chủ tịch Ủy ban của tổng thống về cuộc sát tế người Do thái mà mục đích chính là để giúp cho thế giới nhớ mãi đến tội ác của Đức quốc xã. Nhiệm vụ của Ủy ban này là thiết lập một bảo tàng viện tại Hoa kỳ để tưởng nhớ các nạn nhân của cuộc sát tế. Một trong những mục đích chính của viện bảo tàng này là bảo vệ tương lai nhân loại tránh khỏi một tội ác khủng khiếp như thế.
Ông giải thích: “Chúng ta hãy tưởng nhớ. Chúng ta hãy tưởng nhớ các vị anh hùng ở Warsaw, các vị tử đạo ở Treblinka, các trẻ em tại Auschwitz. Họ đã chiến đấu một mình. Họ đã đau khổ một mình. Họ đã sống một mình, nhưng họ đã không chết một mình, bởi vì tất cả chúng ta cũng đều chết với họ.” (x. Elie Wiesel, Wikipedia)
Khẩu hiệu “Lest we forget” mà tôi đọc được trên các đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong tại Úc cũng như lời nhắn nhủ trên đây của ông Elie Wiesel thường vang vọng trong tôi mỗi dạo tháng Tư Đen của người Việt nam trở về. Ngày 30 tháng Tư của người Việt nam cũng chẳng khác gì ngày Anzac của người Úc hay việc tưởng niệm cuộc sát tế người Do thái do Đức quốc xã chủ xướng.
Các chế độ độc tài Cộng sản đã bị Nghị viện của Hội đồng Âu châu chính thức kết án với nghị quyết số 1481 được thông qua ngày 25 tháng Giêng 2006.  Ngày 3 tháng 6 năm 2008, nhiều chính trị gia, tù nhân chính trị và sử gia, trong đó có cựu tổng thống Tiệp ông Vaclav Havel, đã ký tên vào một tuyên ngôn kêu gọi không những lên án mà còn phải giáo dục về tội ác của Cộng sản. Tuyên ngôn có đoạn viết: “Cần phải nhìn nhận những tội ác đã phạm nhân danh chủ nghĩa Cộng sản như những tội ác chống lại nhân loại và như một lời cảnh cáo cho các thế hệ tương lai, cũng như đã từng nhìn nhận tội ác của Đức quốc xã trong Tòa án Nuremberg.”
Trong văn chương cũng như chính trị, đã có quá nhiều tiếng nói lên án những tội ác của các chế độ Cộng sản. Sự hiện diện của người Việt tỵ nạn rải rác trên khắp thế giới cũng là một lời tố cáo hùng hồn về muôn vàn tội ác của chủ nghĩa này. Nhưng riêng ngày 30 tháng Tư là một nhắc nhở thúc bách hơn cả. Nó sẽ mãi mãi là một tiếng gọi da diết để nhớ lại tội ác của chế độ Cộng sản tại Việt nam và một cảnh cáo cho các thế hệ tương lai. Có một ngày như thế để nhớ lại tội ác chứ không phải để hận thù, bởi vì nuôi dưỡng hận thù, xét cho cùng, cũng chính là vô tình đi lại con đường của cái thứ chủ nghĩa mà mình đã nguyền rủa.
Nhớ ngày 30 tháng Tư, tôi không thể không nghĩ đến những người thân còn trong nước. Một trong những điều khiến tôi băn khoăn và lo ngại nhứt cho tương lai của dân tộc đó là thái độ dửng dưng của nhiều người trong nước trước tội ác của chế độ Cộng sản. Mỗi lần tôi mở miệng tố cáo tội ác của chế độ, không ít người thân của tôi lên giọng bênh vực: Được như ngày nay là khá lắm rồi!
Nói chung, đa số người Việt trong nước biết nhìn tới mà không nhìn lui. Tôi không ngạc nhiên tại sao kết quả của một cuộc nghiên cứu do Cơ quan nghiên cứu thị trường BVA của Pháp và viện thăm dò dư luận Gallup thực hiện, đều nói rằng “Việt nam (hiểu là người Việt trong nước) là dân tộc lạc quan nhứt trên trái đất này.” Theo kiểu nói của nhà viết tạp ghi Huy Phương, đây chỉ có thể là thứ “lạc quan tự sướng” hay “lạc quan tếu” mà thôi. Trong một đất nước mà hầu hết mọi thứ tự do căn bản nhứt của con người đều bị chối bỏ và chà đạp, trong một xã hội mà khoảng cách giữa giàu nghèo ngày càng lớn, trong một chế độ mà tham nhũng đang đục khoét mọi giai tầng xã hội, trong một môi trường sống mà mọi giá trị đạo đức đều bị thui chột… lạc quan như thế chỉ có thể đồng nghĩa với “thinh lặng và dửng dưng trước tội ác” mà thôi.
30 tháng Tư không chỉ nhắc nhở tôi về tội ác của chế độ Cộng sản. Nó cũng là một lời mời gọi tôi cảnh tỉnh trước tội ác trong chính bản thân tôi. Bao lâu lương tâm của tôi không còn khả năng thao thức và “cắn rứt”, thì vô tình tôi cũng rơi vào chính cái bẫy mà chủ nghĩa Cộng sản đang giăng ra. Xét cho cùng, đã là người, tôi không thể lẩn tránh khỏi chiều kích “đạo đức” của cuộc sống. Lời tố cáo tội ác mà tôi mạnh mẽ hô hào cũng là một nhắc nhở về những đòi hỏi “đạo đức” trong cuộc sống của tôi. Lest we forget!






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét