Chu Thập
31.10.14
Mỗi năm cứ đến ngày cuối tháng 10, tôi lại chuẩn bị một số bánh kẹo, nhứt là sô cô la, để
đón tiếp một số khách “không được mời”. Chính vì không phải là khách mời cho
nên những người khách trong trang phục “Dracula” và đủ các loại hóa trang ma
quái được các trung tâm thương mại sáng chế, chỉ đến gõ cửa và đứng chờ không
quá một phút rồi ra đi. Nhận được chút quà cáp, họ vui vẻ từ giã để đi đến nhà
khác. Không được niềm nở tiếp đón, họ
cũng lẳng lặng ra đi mà không để lộ một dấu hiệu bất mãn hay khó chịu nào cả.
Tôi có cảm tưởng như hằng năm, cứ đến buổi tối ngày lễ hội Halloween, các thiếu
nhi chỉ muốn đến tận nhà để nhắc nhở với mọi người rằng thế giới này, dù có văn
minh tiến bộ đến đâu, cũng vẫn còn cần có chuyện ma quái. Vô thần và hùng hổ
tiêu diệt tôn giáo đến đâu, cuối cùng mấy ông cộng sản lại còn tỏ ra hăng hái
hơn ai hết trong việc tìm về “cõi âm”. Nhờ vậy mà trong cái đất nước có nhiều
tiến sĩ nhứt người ta mới thấy xuất hiện nhiều nhà “ngoại cảm” hơn bất cứ nơi
nào trên thế giới này. Nghe cũng “văn hóa” như tước vị tiến sĩ, những người tự
phong là “nhà ngoại cảm” này làm ăn khấm khá hơn ai hết nhờ biết liên lạc với thế giới âm binh và biến các loại xương súc vật
thành hài cốt liệt sĩ. Dù gì đi nữa, định luật cung cầu trong kinh tế lúc nào
cũng có giá trị. Có những ông đồng bà cốt ăn nên làm ra là bởi trên thế giới
văn minh ngày nay, con người vẫn còn cần có “cõi âm”.
Ngày nay, ở các nước Tây Phương, có lẽ mỗi năm một lần,
người ta có tổ chức lễ hội Halloween là để nhắc nhở trẻ con về “cõi âm”. Ngày
xưa, khi tôi còn nhỏ, hầu như không có ngày nào tôi không được cho “liên lạc” với
thế giới ấy. Tôi vẫn còn nhớ mãi cái “mẹo” bà mẹ đạo đức của tôi thường sử dụng
để kiểm chứng xem tôi có thực sự đi “xem lễ” mỗi buổi sáng không. Bà hỏi: “Hôm
nay ông cha mặc áo lễ mầu gì?” Có lẽ mẹ tôi quên mất rằng trong xóm đạo của tôi, chỉ có
những đứa trẻ bị “thiểu năng” về óc quan
sát mới không biết rằng trong một tuần bảy
ngày, có đến 6 ngày ông cha sở “làm lễ mồ” cho nên mặc áo lễ mầu đen. Được gọi
là “lễ mồ”, bởi vì ở giữa nhà thờ, người ta đặt một quan tài giả, được phủ lên
bằng một miếng vải mầu đen lớn trên đó có vẽ đủ mọi thứ biểu tượng của tang tóc
như sọ, xương và nước mắt. Các cây cột lớn trong nhà thờ cũng được trang trí bằng
mầu đen của tang chế như thế. Mới 5 giờ sáng, nhìn vào cái mồ giả ấy, nghe chuông gọi hồn buồn bã cứ không đầy một phút
lại vang lên một tiếng và nhứt là những câu ngân nga bằng tiếng La Tinh mà vị
linh mục đọc liên hồi như “thần chú”, nếu không ngủ gà ngủ gật hoặc không trốn
đi bắt dế cắm câu ngoài ruộng, có đứa trẻ nào mà không cảm thấy được liên lạc với
thế giới bên kia. Sau lễ, nhằm những ngày mặt trời lên trễ, đi dọc theo con đường
tư ích được những bụi tre đan chéo vào nhau làm thành một cái truông, óc tưởng
tượng của trẻ con lại càng hoạt động mãnh liệt hơn để nghe và thấy đủ mọi thứ
âm thanh và mầu sắc kỳ quái từ cõi âm
như được các bà mẹ mô tả. Mẹ tôi nói về thế giới ấy như thể bà đã từng trở về từ
thế giới ấy. Thiên Đàng là nơi bà không có đủ ngôn ngữ để mô tả. Cùng lắm cũng
chỉ là chuyện cùng với các thiên thần “ca hát ngợi khen Chúa suốt ngày”. Nhưng
riêng về Hỏa Ngục thì chẳng còn ranh giới nào có thể cản đường óc tưởng tượng của
bà. Thật ra, đó cũng là bức tranh mà tôi đã có dịp nghe một số linh mục vẽ ra. Thời
đó, tôi chưa có cơ hội đứng ngắm bức tranh “cuộc phán xét cuối cùng” mà danh họa
Michelangelo (1475-1564) đã phải nằm ngửa để vẽ trên vòm của nguyện đường
Sistine trong điện Vatican. Nhưng bức tranh này xem ra không khủng khiếp bằng
những gì được mẹ tôi và một số linh mục “vẽ” về Hỏa Ngục. Bức tranh càng khủng
khiếp thì niềm tin non dại của tôi càng được củng cố.
Về điều mà giáo lý của Giáo Hội tôi dạy phải tin là “luyện
ngục” thì xem ra óc tưởng tượng của mẹ tôi vừa ít nghiêm khắc lại vừa bị giới hạn
hơn. Đúng như giáo lý truyền thống dạy, mẹ tôi cũng nói đến những linh hồn đang
bị giam giữ nơi đó một “thời gian” và phải được thanh luyện trước khi được cho vào
Thiên Đàng. Nếu được người sống “xin lễ” cầu nguyện cho thì thời gian thanh luyện
sẽ được “rút ngắn”! Về chuyện “Luyện ngục” thì thỉnh thoảng mẹ tôi cũng kể chuyện
một số linh hồn từ bên đó được Chúa “cho phép” về “báo mộng” hay làm một dấu hiệu
nào đó để người thân biết mà xin lễ cầu nguyện. Mẹ tôi cũng nói đến trường hợp
những linh hồn “cô độc” bị giam giữ trong Luyện ngục “lâu ngày” mà chẳng còn được
ai nhớ đến cho nên thỉnh thoảng bà cũng xin lễ để cầu nguyện cho những người mà
bà gọi là những linh hồn “mồ côi”.
Tôi không biết đây có phải là nguồn gốc của nhân vật huyền thoại có tên
là “Stingy Jack” được nhắc đến với chiếc lồng đèn quen thuộc làm bằng trái bí rợ
(pumkin) được khắc theo hình của đầu người thường được trưng bày trong lễ hội
Halloween không. Mỗi nước đều có một câu chuyện khác nhau về nhân vật này. Có
chuyện kể rằng Jack là một tên thợ rèn đã sử dụng một cây thánh giá để lừa Diêm
Vương. Anh đã leo lên một cây táo, gắn vào thân và nhành cây đủ mọi loại thánh
giá và từ đó nhử cho Diêm Vương leo lên. Tên Quỷ Dữ leo lên nhưng bị thánh giá
cản bước cho nên không thể đi xuống. Một câu chuyện khác về Jack còn cho biết
anh bị một số dân làng săn đuổi vì đã ăn cắp của họ. Trên đường đi trốn, anh được
Diêm Vương cho biết giờ chết của anh đã điểm. Nhưng trước khi được Diêm Vương
“dũ sổ”, Jack xin Diêm Vương một ân huệ cuối cùng là hãy tự biến thành một đồng
bạc để anh có thể đền trả cho dân làng về những gì anh đã đánh cắp của họ. Diêm
Vương đồng ý. Nhưng lần này Diêm Vương bị một cú lừa đau đớn: sau khi Diêm
Vương tự biến thành đồng bạc, Jack cho hắn vào trong ví trong đó hắn chạm phải
thánh giá cho nên bị tước đoạt mọi thứ quyền lực và như vậy không còn đủ sức để
thu tóm linh hồn của Jack được. Nói chung, cứ mỗi lần sắp bị dũ sổ để về chầu
Diêm Vương thì Jack lại nghĩ ra một kế để lừa hắn. Nhưng không phải là người bất
tử cho nên cũng có lúc Jack phải từ giã cõi đời để ra đi. Vấn đề đối với con
người xem trời bằng vung này là chẳng biết mình phải đi đâu. Tội lỗi tày đình
thì làm sao có thể được Thánh Phêrô mở cửa cho vào Thiên Đàng được. Riêng Diêm
Vương thì cũng đã bó tay rồi. Thành ra, trong cõi âm, Jack cứ phải lang thang
rày đây mai đó. Lúc sinh tiền anh rất thích ăn trái bí rợ cho nên anh đành chui
vào đó và đi khắp mặt đất để tìm một nơi an nghỉ. Anh được người ta đặt
cho cái tên “Jack of the Lantern” hay
“Jack-o’-lantern” (Jack lồng đèn). Vì anh cứ tiếp tục lang thang trên mặt đất
cho nên cứ mỗi tối cuối cùng của tháng 10, trước tháng cầu nguyện cho người quá
cố theo truyền thống Kitô giáo, người ta làm những chiếc lồng đèn bằng bí rợ để
khử trừ những người “không chết” như Jack.
Câu chuyện về những linh hồn “mồ côi” không biết đi đâu
như Jack gợi lại cho tôi chuyện thường được kể về một pháp trường nằm sát Cửa
Tiền (Cửa phía Bắc) của Thành Diên Khánh, gần sinh quán của tôi. Mỗi lần nói đến
pháp trường này, cha mẹ tôi thường nhắc đến tên một số người đã từng làm đao phủ,
nghĩa là đã từng cầm dao chặt đầu các tử tội và hiện vẫn còn sống. Điều đó có
nghĩa là cho đến khi tôi sinh ra, chuyện xử trảm vẫn còn thịnh hành ở cái pháp
trường này. Đây là một bãi đất lớn nằm sát Sông Cái, nhìn về hướng Bắc. Khi tôi
có trí khôn thì pháp trường này đã biến thành một mảnh đất canh tác. Dĩ nhiên,
nơi nào có nhiều oan hồn thì nơi đó phải có nhiều ma thôi. Chính vì vậy mà vào
những mùa soi ếch tháng 3 hoặc tháng 10 âm lịch, những tay “hảo hán” trong làng
tôi thường tụ tập tại cái pháp trường cũ ấy để kiếm ăn. Trời mưa lâm râm, tiếng
ếch nhái và ễnh ương hòa quyện với nhau thành một bản hợp tấu mà tai của những
tay soi ếch thường nghe ra thành một câu như: “Đầu đây, mình đâu?”. Đầu bị chém
hiện đang nằm ở đây, nhưng mình thì bị chôn hay vất vưởng nơi nào không biết.
Đây có phải là oan hồn hoặc linh hồn “mồ côi” như mẹ tôi thường nói đến hoặc
đơn thuần là ma không?
Chuyện ma, ai cũng thích nghe. Hollywood vẫn tiếp tục
kinh doanh bằng nỗi sợ ma của con người. Văn minh như ở xứ Úc này, người ta vẫn cứ tiếp tục nói đến 8
ngôi nhà ma ám và 7 nơi có ma đáng sợ nhứt. Ngay như con đường Wyong dẫn đến
The Entrance, điểm hẹn nổi tiếng của dân câu cá, thỉnh thoảng báo chí địa
phương cũng nhắc đến chuyện một cô gái xõa tóc đón đường xin quá giang.
Lúc nhỏ tôi có vài lần chứng kiến những hiện tượng khó hiểu.
Nhưng trái với mẹ tôi là người “thấy” ma hầu như mỗi ngày, tôi không bao giờ
dám quả quyết rằng mình đã được ma quái chiếu cố đến. Dù vậy, tôi vẫn tin rằng
cái cõi âm huyền bí kia vẫn hiện hữu, người chết vẫn còn hiện diện và vẫn còn
liên lạc với người sống một cách nào đó. Có những linh hồn “mồ côi” đang lang
thang ở đâu đó không, tôi không biết. Người chết có cần tôi xin lễ để “hối lộ”
với Thiên Chúa hầu chóng được giải thoát không, tôi cũng chẳng cảm thấy được
thuyết phục cho lắm. Quan hệ với người thân đã ra đi thường nhắc tôi nhớ đến lời
trách móc quen thuộc của người Việt Nam: “Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.
Người chết đâu cần tôi đối xử tốt nữa. Với tôi, nếu người quá cố còn liên lạc với
tôi cách nào đó là chỉ để nhắc nhở tôi cố gắng sống cho ra người tử tế hơn mà
thôi. Lái xe dọc theo những con đường có nhiều thập giá hai bên đường, tôi có cảm
nhận như thể những người ra đi vì tai nạn giao thông vẫn còn đâu đó và họ nhắc
nhở tôi phải lái xe cẩn thận để tránh gây thiệt hại cho bản thân và nhứt là cho
người khác.
Mỗi lần đi qua một nghĩa trang, nhìn vào nơi yên nghỉ của người quá
cố, tôi không thể không cảm thấy được mời gọi để xây dựng quan hệ tốt đẹp với
người khác và nhờ đó mới có được cái tâm an bình. Tôi không biết có linh hồn “mồ
côi” hay “cô hồn các đẳng”. Nhưng tôi tin chắc rằng xung quanh tôi còn có biết
bao nhiêu “linh hồn” trong những con người đang thực sự sống, thực sự cô đơn đang
cần tôi tôn trọng, an ủi, đỡ nâng và cảm thông cũng như biết bao nhiêu người
đói khát cần được tôi nhường cơm xẻ áo. Có lẽ đó là thông điệp mà từ bên kia thế
giới lúc nào người quá cố cũng muốn nhắn gởi cho tôi.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét