Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014

Nhớ cô hồn các đẳng


Chu Thập
31.10.14
Mỗi năm cứ đến ngày cuối tháng 10, tôi lại chuẩn bị một số bánh kẹo, nhứt là sô cô la, để đón tiếp một số khách “không được mời”. Chính vì không phải là khách mời cho nên những người khách trong trang phục “Dracula” và đủ các loại hóa trang ma quái được các trung tâm thương mại sáng chế, chỉ đến gõ cửa và đứng chờ không quá một phút rồi ra đi. Nhận được chút quà cáp, họ vui vẻ từ giã để đi đến nhà khác. Không được  niềm nở tiếp đón, họ cũng lẳng lặng ra đi mà không để lộ một dấu hiệu bất mãn hay khó chịu nào cả. Tôi có cảm tưởng như hằng năm, cứ đến buổi tối ngày lễ hội Halloween, các thiếu nhi chỉ muốn đến tận nhà để nhắc nhở với mọi người rằng thế giới này, dù có văn minh tiến bộ đến đâu, cũng vẫn còn cần có chuyện ma quái. Vô thần và hùng hổ tiêu diệt tôn giáo đến đâu, cuối cùng mấy ông cộng sản lại còn tỏ ra hăng hái hơn ai hết trong việc tìm về “cõi âm”. Nhờ vậy mà trong cái đất nước có nhiều tiến sĩ nhứt người ta mới thấy xuất hiện nhiều nhà “ngoại cảm” hơn bất cứ nơi nào trên thế giới này. Nghe cũng “văn hóa” như tước vị tiến sĩ, những người tự phong là “nhà ngoại cảm” này làm ăn khấm khá hơn ai hết nhờ biết liên lạc với  thế giới âm binh và biến các loại xương súc vật thành hài cốt liệt sĩ. Dù gì đi nữa, định luật cung cầu trong kinh tế lúc nào cũng có giá trị. Có những ông đồng bà cốt ăn nên làm ra là bởi trên thế giới văn minh ngày nay, con người vẫn còn cần có “cõi âm”.
Ngày nay, ở các nước Tây Phương, có lẽ mỗi năm một lần, người ta có tổ chức lễ hội Halloween là để nhắc nhở trẻ con về “cõi âm”. Ngày xưa, khi tôi còn nhỏ, hầu như không có ngày nào tôi không được cho “liên lạc” với thế giới ấy. Tôi vẫn còn nhớ mãi cái “mẹo” bà mẹ đạo đức của tôi thường sử dụng để kiểm chứng xem tôi có thực sự đi “xem lễ” mỗi buổi sáng không. Bà hỏi: “Hôm nay ông cha mặc áo lễ mầu gì?” Có lẽ mẹ tôi quên mất rằng trong xóm đạo của tôi, chỉ có những đứa trẻ bị  “thiểu năng” về óc quan sát mới  không biết rằng trong một tuần bảy ngày, có đến 6 ngày ông cha sở “làm lễ mồ” cho nên mặc áo lễ mầu đen. Được gọi là “lễ mồ”, bởi vì ở giữa nhà thờ, người ta đặt một quan tài giả, được phủ lên bằng một miếng vải mầu đen lớn trên đó có vẽ đủ mọi thứ biểu tượng của tang tóc như sọ, xương và nước mắt. Các cây cột lớn trong nhà thờ cũng được trang trí bằng mầu đen của tang chế như thế. Mới 5 giờ sáng, nhìn vào cái mồ giả ấy, nghe  chuông gọi hồn buồn bã cứ không đầy một phút lại vang lên một tiếng và nhứt là những câu ngân nga bằng tiếng La Tinh mà vị linh mục đọc liên hồi như “thần chú”, nếu không ngủ gà ngủ gật hoặc không trốn đi bắt dế cắm câu ngoài ruộng, có đứa trẻ nào mà không cảm thấy được liên lạc với thế giới bên kia. Sau lễ, nhằm những ngày mặt trời lên trễ, đi dọc theo con đường tư ích được những bụi tre đan chéo vào nhau làm thành một cái truông, óc tưởng tượng của trẻ con lại càng hoạt động mãnh liệt hơn để nghe và thấy đủ mọi thứ âm thanh và mầu sắc kỳ quái  từ cõi âm như được các bà mẹ mô tả. Mẹ tôi nói về thế giới ấy như thể bà đã từng trở về từ thế giới ấy. Thiên Đàng là nơi bà không có đủ ngôn ngữ để mô tả. Cùng lắm cũng chỉ là chuyện cùng với các thiên thần “ca hát ngợi khen Chúa suốt ngày”. Nhưng riêng về Hỏa Ngục thì chẳng còn ranh giới nào có thể cản đường óc tưởng tượng của bà. Thật ra, đó cũng là bức tranh mà tôi đã có dịp nghe một số linh mục vẽ ra. Thời đó, tôi chưa có cơ hội đứng ngắm bức tranh “cuộc phán xét cuối cùng” mà danh họa Michelangelo (1475-1564) đã phải nằm ngửa để vẽ trên vòm của nguyện đường Sistine trong điện Vatican. Nhưng bức tranh này xem ra không khủng khiếp bằng những gì được mẹ tôi và một số linh mục “vẽ” về Hỏa Ngục. Bức tranh càng khủng khiếp thì niềm tin non dại của tôi càng được củng cố.
Về điều mà giáo lý của Giáo Hội tôi dạy phải tin là “luyện ngục” thì xem ra óc tưởng tượng của mẹ tôi vừa ít nghiêm khắc lại vừa bị giới hạn hơn. Đúng như giáo lý truyền thống dạy, mẹ tôi cũng nói đến những linh hồn đang bị giam giữ nơi đó một “thời gian” và phải được thanh luyện trước khi được cho vào Thiên Đàng. Nếu được người sống “xin lễ” cầu nguyện cho thì thời gian thanh luyện sẽ được “rút ngắn”! Về chuyện “Luyện ngục” thì thỉnh thoảng mẹ tôi cũng kể chuyện một số linh hồn từ bên đó được Chúa “cho phép” về “báo mộng” hay làm một dấu hiệu nào đó để người thân biết mà xin lễ cầu nguyện. Mẹ tôi cũng nói đến trường hợp những linh hồn “cô độc” bị giam giữ trong Luyện ngục “lâu ngày” mà chẳng còn được ai nhớ đến cho nên thỉnh thoảng bà cũng xin lễ để cầu nguyện cho những người mà bà gọi là những linh hồn “mồ côi”.
Tôi không biết đây có phải  là nguồn gốc của nhân vật huyền thoại có tên là “Stingy Jack” được nhắc đến với chiếc lồng đèn quen thuộc làm bằng trái bí rợ (pumkin) được khắc theo hình của đầu người thường được trưng bày trong lễ hội Halloween không. Mỗi nước đều có một câu chuyện khác nhau về nhân vật này. Có chuyện kể rằng Jack là một tên thợ rèn đã sử dụng một cây thánh giá để lừa Diêm Vương. Anh đã leo lên một cây táo, gắn vào thân và nhành cây đủ mọi loại thánh giá và từ đó nhử cho Diêm Vương leo lên. Tên Quỷ Dữ leo lên nhưng bị thánh giá cản bước cho nên không thể đi xuống. Một câu chuyện khác về Jack còn cho biết anh bị một số dân làng săn đuổi vì đã ăn cắp của họ. Trên đường đi trốn, anh được Diêm Vương cho biết giờ chết của anh đã điểm. Nhưng trước khi được Diêm Vương “dũ sổ”, Jack xin Diêm Vương một ân huệ cuối cùng là hãy tự biến thành một đồng bạc để anh có thể đền trả cho dân làng về những gì anh đã đánh cắp của họ. Diêm Vương đồng ý. Nhưng lần này Diêm Vương bị một cú lừa đau đớn: sau khi Diêm Vương tự biến thành đồng bạc, Jack cho hắn vào trong ví trong đó hắn chạm phải thánh giá cho nên bị tước đoạt mọi thứ quyền lực và như vậy không còn đủ sức để thu tóm linh hồn của Jack được. Nói chung, cứ mỗi lần sắp bị dũ sổ để về chầu Diêm Vương thì Jack lại nghĩ ra một kế để lừa hắn. Nhưng không phải là người bất tử cho nên cũng có lúc Jack phải từ giã cõi đời để ra đi. Vấn đề đối với con người xem trời bằng vung này là chẳng biết mình phải đi đâu. Tội lỗi tày đình thì làm sao có thể được Thánh Phêrô mở cửa cho vào Thiên Đàng được. Riêng Diêm Vương thì cũng đã bó tay rồi. Thành ra, trong cõi âm, Jack cứ phải lang thang rày đây mai đó. Lúc sinh tiền anh rất thích ăn trái bí rợ cho nên anh đành chui vào đó và đi khắp mặt đất để tìm một nơi an nghỉ. Anh được người ta đặt cho  cái tên “Jack of the Lantern” hay “Jack-o’-lantern” (Jack lồng đèn). Vì anh cứ tiếp tục lang thang trên mặt đất cho nên cứ mỗi tối cuối cùng của tháng 10, trước tháng cầu nguyện cho người quá cố theo truyền thống Kitô giáo, người ta làm những chiếc lồng đèn bằng bí rợ để khử trừ những người “không chết” như Jack.
Câu chuyện về những linh hồn “mồ côi” không biết đi đâu như Jack gợi lại cho tôi chuyện thường được kể về một pháp trường nằm sát Cửa Tiền (Cửa phía Bắc) của Thành Diên Khánh, gần sinh quán của tôi. Mỗi lần nói đến pháp trường này, cha mẹ tôi thường nhắc đến tên một số người đã từng làm đao phủ, nghĩa là đã từng cầm dao chặt đầu các tử tội và hiện vẫn còn sống. Điều đó có nghĩa là cho đến khi tôi sinh ra, chuyện xử trảm vẫn còn thịnh hành ở cái pháp trường này. Đây là một bãi đất lớn nằm sát Sông Cái, nhìn về hướng Bắc. Khi tôi có trí khôn thì pháp trường này đã biến thành một mảnh đất canh tác. Dĩ nhiên, nơi nào có nhiều oan hồn thì nơi đó phải có nhiều ma thôi. Chính vì vậy mà vào những mùa soi ếch tháng 3 hoặc tháng 10 âm lịch, những tay “hảo hán” trong làng tôi thường tụ tập tại cái pháp trường cũ ấy để kiếm ăn. Trời mưa lâm râm, tiếng ếch nhái và ễnh ương hòa quyện với nhau thành một bản hợp tấu mà tai của những tay soi ếch thường nghe ra thành một câu như: “Đầu đây, mình đâu?”. Đầu bị chém hiện đang nằm ở đây, nhưng mình thì bị chôn hay vất vưởng nơi nào không biết. Đây có phải là oan hồn hoặc linh hồn “mồ côi” như mẹ tôi thường nói đến hoặc đơn thuần là ma không?
Chuyện ma, ai cũng thích nghe. Hollywood vẫn tiếp tục kinh doanh bằng nỗi sợ ma của con người. Văn minh như ở  xứ Úc này, người ta vẫn cứ tiếp tục nói đến 8 ngôi nhà ma ám và 7 nơi có ma đáng sợ nhứt. Ngay như con đường Wyong dẫn đến The Entrance, điểm hẹn nổi tiếng của dân câu cá, thỉnh thoảng báo chí địa phương cũng nhắc đến chuyện một cô gái xõa tóc đón đường xin quá giang.

Lúc nhỏ tôi có vài lần chứng kiến những hiện tượng khó hiểu. Nhưng trái với mẹ tôi là người “thấy” ma hầu như mỗi ngày, tôi không bao giờ dám quả quyết rằng mình đã được ma quái chiếu cố đến. Dù vậy, tôi vẫn tin rằng cái cõi âm huyền bí kia vẫn hiện hữu, người chết vẫn còn hiện diện và vẫn còn liên lạc với người sống một cách nào đó. Có những linh hồn “mồ côi” đang lang thang ở đâu đó không, tôi không biết. Người chết có cần tôi xin lễ để “hối lộ” với Thiên Chúa hầu chóng được giải thoát không, tôi cũng chẳng cảm thấy được thuyết phục cho lắm. Quan hệ với người thân đã ra đi thường nhắc tôi nhớ đến lời trách móc quen thuộc của người Việt Nam: “Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi”. Người chết đâu cần tôi đối xử tốt nữa. Với tôi, nếu người quá cố còn liên lạc với tôi cách nào đó là chỉ để nhắc nhở tôi cố gắng sống cho ra người tử tế hơn mà thôi. Lái xe dọc theo những con đường có nhiều thập giá hai bên đường, tôi có cảm nhận như thể những người ra đi vì tai nạn giao thông vẫn còn đâu đó và họ nhắc nhở tôi phải lái xe cẩn thận để tránh gây thiệt hại cho bản thân và nhứt là cho người khác. 
Mỗi lần đi qua một nghĩa trang, nhìn vào nơi yên nghỉ của người quá cố, tôi không thể không cảm thấy được mời gọi để xây dựng quan hệ tốt đẹp với người khác và nhờ đó mới có được cái tâm an bình. Tôi không biết có linh hồn “mồ côi” hay “cô hồn các đẳng”. Nhưng tôi tin chắc rằng xung quanh tôi còn có biết bao nhiêu “linh hồn” trong những con người đang thực sự sống, thực sự cô đơn đang cần tôi tôn trọng, an ủi, đỡ nâng và cảm thông cũng như biết bao nhiêu người đói khát cần được tôi nhường cơm xẻ áo. Có lẽ đó là thông điệp mà từ bên kia thế giới lúc nào người quá cố cũng muốn nhắn gởi cho tôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét