Chu Thập
31.10.14

Ngày nay, ở các nước Tây Phương, có lẽ mỗi năm một lần,
người ta có tổ chức lễ hội Halloween là để nhắc nhở trẻ con về “cõi âm”. Ngày
xưa, khi tôi còn nhỏ, hầu như không có ngày nào tôi không được cho “liên lạc” với
thế giới ấy. Tôi vẫn còn nhớ mãi cái “mẹo” bà mẹ đạo đức của tôi thường sử dụng
để kiểm chứng xem tôi có thực sự đi “xem lễ” mỗi buổi sáng không. Bà hỏi: “Hôm
nay ông cha mặc áo lễ mầu gì?” Có lẽ mẹ tôi quên mất rằng trong xóm đạo của tôi, chỉ có
những đứa trẻ bị “thiểu năng” về óc quan
sát mới không biết rằng trong một tuần bảy
ngày, có đến 6 ngày ông cha sở “làm lễ mồ” cho nên mặc áo lễ mầu đen. Được gọi
là “lễ mồ”, bởi vì ở giữa nhà thờ, người ta đặt một quan tài giả, được phủ lên
bằng một miếng vải mầu đen lớn trên đó có vẽ đủ mọi thứ biểu tượng của tang tóc
như sọ, xương và nước mắt. Các cây cột lớn trong nhà thờ cũng được trang trí bằng
mầu đen của tang chế như thế. Mới 5 giờ sáng, nhìn vào cái mồ giả ấy, nghe chuông gọi hồn buồn bã cứ không đầy một phút
lại vang lên một tiếng và nhứt là những câu ngân nga bằng tiếng La Tinh mà vị
linh mục đọc liên hồi như “thần chú”, nếu không ngủ gà ngủ gật hoặc không trốn
đi bắt dế cắm câu ngoài ruộng, có đứa trẻ nào mà không cảm thấy được liên lạc với
thế giới bên kia. Sau lễ, nhằm những ngày mặt trời lên trễ, đi dọc theo con đường
tư ích được những bụi tre đan chéo vào nhau làm thành một cái truông, óc tưởng
tượng của trẻ con lại càng hoạt động mãnh liệt hơn để nghe và thấy đủ mọi thứ
âm thanh và mầu sắc kỳ quái từ cõi âm
như được các bà mẹ mô tả. Mẹ tôi nói về thế giới ấy như thể bà đã từng trở về từ
thế giới ấy. Thiên Đàng là nơi bà không có đủ ngôn ngữ để mô tả. Cùng lắm cũng
chỉ là chuyện cùng với các thiên thần “ca hát ngợi khen Chúa suốt ngày”. Nhưng
riêng về Hỏa Ngục thì chẳng còn ranh giới nào có thể cản đường óc tưởng tượng của
bà. Thật ra, đó cũng là bức tranh mà tôi đã có dịp nghe một số linh mục vẽ ra. Thời
đó, tôi chưa có cơ hội đứng ngắm bức tranh “cuộc phán xét cuối cùng” mà danh họa
Michelangelo (1475-1564) đã phải nằm ngửa để vẽ trên vòm của nguyện đường
Sistine trong điện Vatican. Nhưng bức tranh này xem ra không khủng khiếp bằng
những gì được mẹ tôi và một số linh mục “vẽ” về Hỏa Ngục. Bức tranh càng khủng
khiếp thì niềm tin non dại của tôi càng được củng cố.
Về điều mà giáo lý của Giáo Hội tôi dạy phải tin là “luyện
ngục” thì xem ra óc tưởng tượng của mẹ tôi vừa ít nghiêm khắc lại vừa bị giới hạn
hơn. Đúng như giáo lý truyền thống dạy, mẹ tôi cũng nói đến những linh hồn đang
bị giam giữ nơi đó một “thời gian” và phải được thanh luyện trước khi được cho vào
Thiên Đàng. Nếu được người sống “xin lễ” cầu nguyện cho thì thời gian thanh luyện
sẽ được “rút ngắn”! Về chuyện “Luyện ngục” thì thỉnh thoảng mẹ tôi cũng kể chuyện
một số linh hồn từ bên đó được Chúa “cho phép” về “báo mộng” hay làm một dấu hiệu
nào đó để người thân biết mà xin lễ cầu nguyện. Mẹ tôi cũng nói đến trường hợp
những linh hồn “cô độc” bị giam giữ trong Luyện ngục “lâu ngày” mà chẳng còn được
ai nhớ đến cho nên thỉnh thoảng bà cũng xin lễ để cầu nguyện cho những người mà
bà gọi là những linh hồn “mồ côi”.
.jpg)
.jpg)
Chuyện ma, ai cũng thích nghe. Hollywood vẫn tiếp tục
kinh doanh bằng nỗi sợ ma của con người. Văn minh như ở xứ Úc này, người ta vẫn cứ tiếp tục nói đến 8
ngôi nhà ma ám và 7 nơi có ma đáng sợ nhứt. Ngay như con đường Wyong dẫn đến
The Entrance, điểm hẹn nổi tiếng của dân câu cá, thỉnh thoảng báo chí địa
phương cũng nhắc đến chuyện một cô gái xõa tóc đón đường xin quá giang.
Lúc nhỏ tôi có vài lần chứng kiến những hiện tượng khó hiểu.
Nhưng trái với mẹ tôi là người “thấy” ma hầu như mỗi ngày, tôi không bao giờ
dám quả quyết rằng mình đã được ma quái chiếu cố đến. Dù vậy, tôi vẫn tin rằng
cái cõi âm huyền bí kia vẫn hiện hữu, người chết vẫn còn hiện diện và vẫn còn
liên lạc với người sống một cách nào đó. Có những linh hồn “mồ côi” đang lang
thang ở đâu đó không, tôi không biết. Người chết có cần tôi xin lễ để “hối lộ”
với Thiên Chúa hầu chóng được giải thoát không, tôi cũng chẳng cảm thấy được
thuyết phục cho lắm. Quan hệ với người thân đã ra đi thường nhắc tôi nhớ đến lời
trách móc quen thuộc của người Việt Nam: “Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.
Người chết đâu cần tôi đối xử tốt nữa. Với tôi, nếu người quá cố còn liên lạc với
tôi cách nào đó là chỉ để nhắc nhở tôi cố gắng sống cho ra người tử tế hơn mà
thôi. Lái xe dọc theo những con đường có nhiều thập giá hai bên đường, tôi có cảm
nhận như thể những người ra đi vì tai nạn giao thông vẫn còn đâu đó và họ nhắc
nhở tôi phải lái xe cẩn thận để tránh gây thiệt hại cho bản thân và nhứt là cho
người khác.
Mỗi lần đi qua một nghĩa trang, nhìn vào nơi yên nghỉ của người quá
cố, tôi không thể không cảm thấy được mời gọi để xây dựng quan hệ tốt đẹp với
người khác và nhờ đó mới có được cái tâm an bình. Tôi không biết có linh hồn “mồ
côi” hay “cô hồn các đẳng”. Nhưng tôi tin chắc rằng xung quanh tôi còn có biết
bao nhiêu “linh hồn” trong những con người đang thực sự sống, thực sự cô đơn đang
cần tôi tôn trọng, an ủi, đỡ nâng và cảm thông cũng như biết bao nhiêu người
đói khát cần được tôi nhường cơm xẻ áo. Có lẽ đó là thông điệp mà từ bên kia thế
giới lúc nào người quá cố cũng muốn nhắn gởi cho tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét