Chu
Thập
1/3/11
Là dân ghiền “xi
nê” cho nên mỗi năm cứ đến mùa trao giải Oscars, tôi lại đoán già đoán non về
các thứ giải. Tôi mong cho cuốn phim ưng ý nhứt của tôi được trao giải. Tôi chờ
đợi tài tử “ruột” của tôi được ẵm một tượng Oscar với danh hiệu diễn viên xuất
sắc. Nhưng năm nay, tôi không chú ý đến các tài tử giai nhân cho bằng cốt chuyện
phim.
Trong số các cuốn
phim được đề cử Oscar năm nay, tôi nhận thấy có nhiều cuốn phim có nội dung đề
cao cuộc chiến đấu nội tâm của con người. Nói đến “chiến đấu” thì dĩ nhiên trước
tiên phải nói đến cuộc chiến cam go của nhân vật chính trong cuốn phim “The
Fighter”. Dicky Eklund do Mark Wahlberg thủ diễn, là một võ sĩ quyền Anh đã chiến
thắng trong cuộc chiến chống lại ma túy, để đứa con gái được gặp cha, để bà mẹ
thôi đau lòng.
Cam go không kém
là cuộc chiến của tên buôn lậu trong cuốn phim “Biutiful”. Biết mình đang bị
ung thư vào thời kỳ cuối cùng, một người chuyên buôn hàng lậu đã sám hối để tìm
sự bình an và để “đức” lại cho hai đứa con nhỏ và người vợ điên.
Trong cuốn phim
có tựa đề “127 hours”, một chàng leo núi đã phải chiến đấu từng giờ với một quyết
định sinh tử: hoặc là cưa bàn tay để sống hay cứ chờ đợi để chết trong mòn mỏi.
Nhưng cảm động
nhứt có lẽ là câu chuyện của quốc vương George VI của Anh quốc trong cuốn phim
“The King’s Speech” vừa đoạt được một lúc 4 Oscars năm nay. Cuốn phim kể lại cuộc
đời của vua George VI. Anh ông là George V bị buộc phải thoái vị vì đi theo tiếng
gọi của tình yêu. George VI xem ra vô tài và bị bệnh cà lăm lại được chọn thay
thế anh mình. Bằng một ý chí sắt đá, ông vua này đã chế ngự được khuyết tật: là
một người cà lăm, ông đã đọc được “xuôi chảy” và hùng hồn một bài diễn văn mạch
lạc để trấn an và liên kết quốc dân Anh trước khi Đệ Nhị Thế chiến bùng nổ (x.
Bình HM trong “Oscar 2011: Đàn thiên nga lại về”, Việt báo 25/2/2011)
Con người có thể
chế ngự ý chí để đạt được điều mình muốn. Nhưng chiến thắng của ý chí không
đương nhiên là chiến thắng vẻ vang nhứt. Đây là trường hợp của một vũ công
ballet trong cuốn phim “Black Swan”. Nina là một vũ công xinh đẹp, tài ba, đầy
ý chí và nhứt là tham vọng. Cô chỉ có một nỗi ám ảnh: phải là người thủ vai chính
trong màn vũ “Black Swan”. Do đó, ngoài một kỷ luật thép để luyện tập, cô còn sẵn
sàng trả mọi thứ giá đắt nhứt, kể cả phản bội một người bạn thân để được ông đạo
diễn chọn vào vai chính. Nina đã đạt được đỉnh cao danh vọng trên sân khấu,
nhưng cô đã ngã gục trong cuộc chiến nội tâm giữa cái tôi ích kỷ và lòng vị
tha, giữa thiện và ác, giữa tăm tối và
ánh sáng.
Lúc nhỏ, tôi chỉ
thích xem phim “hoạt động”, nghĩa là có những màn đánh võ, đấu kiếm hay bắn
súng diễn tiến theo cái triết lý luôn có hậu của “Đông phương”: người lương thiện
luôn chiến thắng và kẻ gian tà phải bị đánh bại. Càng thêm tuổi đời, tôi càng
thấy cái “tâm cảnh” của con người phức tạp hơn nhiều cho nên sở thích của tôi
hướng về những màn kịch tâm lý, với nhiều cuộc chiến nội tâm hơn. Tôi nghĩ đây
cũng là vấn đề muôn thuở của con người.
Đầu thập niên 1970,
ký giả Anh Malcolm Muggeridge rất ngạc nhiên khi nghe nói rằng giới trí thức
Nga, mặc dù đang sống dưới chế độ cộng sản vô thần, vẫn trải nghiệm được một cuộc
hồi sinh tinh thần. Một nhà bất đồng chính kiến Nga đang sống tại Anh quốc nói
với ký giả Muggridge rằng bất cứ một nhà văn, nghệ sĩ hay nhạc sĩ nổi bật nào tại
Liên Xô cũng đều khai thác những vấn đề tinh thần. Ký giả Muggeridge hỏi nhà bất
đồng chính kiến này tại sao điều đó lại có thể xảy ra trong một chế độ vô thần
với chủ trương tẩy não rất tàn ác và loại trừ mọi thứ văn chương có liên quan đến
Kitô giáo. Người này trả lời rằng chế độ cộng sản Liên xô đã quên mất một điều:
họ đã không tiêu hủy các tác phẩm của hai đại văn hào Leo Tolstoy và Fiodor
Dostoevski. Họ không biết rằng chủ đề sáng tác của hai nhà văn này đều xoay
quanh cuộc chiến đấu giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Sống trong
cùng một giai đoạn lịch sử, đọc các tác phẩm của nhau, ngưỡng mộ nhau, nhưng
hai đại văn hào Nga này chưa một lần gặp nhau. Dù vậy, xuyên qua cuộc sống và
văn nghiệp của mình, cả hai cùng chia sẻ một định mệnh: họ là những con người
liên lỉ chiến đấu trong cuộc chiến giữa thiện và ác ngay trong bản thân mình.
Sinh ra trong một
gia đình quý tộc, lớn lên trong nhung lụa, Tolstoy đã nếm đủ mọi mùi tục lụy.
Lúc còn là một sĩ quan trẻ tuổi trong quân đội, ông đã ăn chơi trác táng. Thế rồi,
được Tin Mừng của Chúa Giêsu thúc đẩy, ông đã quyết tâm làm một cuộc đổi đời.
Vào thời Tolstoy
bắt đầu cầm bút sáng tác, nước Nga có đến 50 triệu tá điền; gần một nửa dân số
nước này sống như những người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc vào các ông chủ. Cùng với
tài sản cha ông để lại, Tolstoy cũng “thừa hưởng” hàng trăm tá điền như thế.
Nhưng khác với các địa chủ khác, Tolstoy đã hòa mình vào cuộc sống của những
người tá điền, chia sẻ cuộc sống cơ cực nghèo nàn của họ. Ông từ bỏ săn bắn,
thuốc lá, rượu thịt. Ông quyết tâm sống một cuộc sống mộc mạc, đơn giản, thoát
khỏi mọi thứ phù phiếm và đối xử với mọi người như nhau. Ông tự vạch ra cho
mình một kỷ luật rất khắt khe để dẹp bỏ những khuynh hướng và đam mê thấp hèn
và phát huy những đức tính tốt.
Tuy nhiên, bị kịch
của Tolstoy là không thể sống cho đến cùng những đòi hỏi và lý tưởng mà ông đã
tìm thấy trong Tin Mừng. Trong quyển nhựt ký của ông, Tolstoy ghi lại rằng
chính bà vợ Sonya của ông đã ngăn cản không cho ông sống theo lý tưởng của
mình. Cuộc sống hôn nhân, mặc dù đã cho hai người đến 16 đứa con, vẫn không
mang lại hạnh phúc cho ông. Suốt một đời của ông là một cuộc chiến đấu không ngừng để tìm sự bình an và thanh thản trong tâm hồn.
Nhưng cho tới những giây phút cuối đời, nhựt ký và thư từ của ông chỉ toàn ghi
lại khoảng cách giữa lý tưởng và những mâu thuẫn của cuộc sống. Lương tâm của
tác giả “Chiến Tranh và Hòa bình” vẫn mãi dày vò cắn rứt ông. Cho đến giây phút
cuối cùng, ông đã trốn chạy khỏi danh vọng, gia đình, tài sản và ngay cả tên tuổi
của mình. Ông qua đời như một kẻ vô danh lang thang đầu đường xó chợ.
Tolstoy xem ra
đã thất bại trong cuộc chiến đấu trường kỳ của mình, nhưng ông đã chứng minh
cho thế giới thấy rằng chỉ có một cuộc chiến đáng để sống chết là cuộc chiến nội
tâm giữa thiện và ác, giữa tăm tối và ánh sáng, giữa tình yêu và hận thù, giữa
ích kỷ và vị tha.
Một cuộc chiến đấu
như thế cũng được phản ảnh một cách sống động qua cuộc sống và các tác phẩm của
nhà văn sống cùng thời với ông: Fyodor Dostoevsky.
Thời tuổi trẻ, vốn
cũng thuộc giới quý tộc, Dostoevsky cũng đã có một cuộc sống thác loạn. Ông bị
bắt giữ vì gia nhập một tổ chức chống lại Nga hoàng Nicolas I. Để gọi là giáo dục
giới trẻ cực đoan, Nga hoàng đã cho tổ chức một cuộc hành quyết giả. Sau 8
tháng bị giam tù, một buổi sáng mùa đông ba ngày trước Lễ Giáng Sinh,
Dostoevski và các bạn tù khác bị mang ra một quảng trường để bị hành quyết.
Nhưng các viên đạn của đội lính tử thần chỉ bắn chỉ thiên. Các tù nhân được
tháo băng vải bịt mắt và cho di chuyển vào trại khổ sai ở Siberia. Trước khi
vào cổng trại, Dostoevski được một phụ nữ đạo đức tặng cho một quyển sách Tin Mừng.
Đây là cuốn sách duy nhứt mà ông được phép đọc trong tù. Dostoevski xem đây như
cơ hội thứ hai mà Thượng Đế đã dành cho ông để đổi đời. Sau 6 năm lao động khổ
sai, cộng với 6 năm bị lưu đày, mang không biết bao nhiêu bệnh tật, Dostoevski
đã trở về cuộc sống tự do như một con người hoàn toàn mới.
Chỉ vài giờ sau
cuộc hành quyết giả, ông viết như sau “cuộc
sống là hạnh phúc, mỗi một phút giây có thể là một niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Sự
sống ở khắp nơi, sự sống ở trong chúng ta, chứ không bên ngoài”. Vừa được
trả tự do và trở về từ Siberia, ông ghi lại: “Hãy yêu mỗi chiếc lá, mỗi tia sáng. Hãy yêu thú vật, hãy yêu cây cối,
hãy yêu từng sự vật. Yêu thương tất cả, bạn sẽ cảm nhận được mầu nhiệm của Thượng
đế trong mọi sự.”
Nhưng dĩ nhiên,
cuộc hồi sinh của Dostoevski đã không diễn ra theo một đường thẳng. Bên cạnh những
quyết tâm vươn lên là vô số những lần vấp ngã. Dù vậy, tác giả của “Tội ác và Hình
phạt” vẫn luôn tin ở sự thiện nội tại trong mỗi một con người. Những năm tháng
sống chung với đủ mọi hạng người cùng khổ trong chốn lao tù đã cho ông một cái
nhìn lạc quan, tin tưởng, cảm thông trước những yếu đuối của người khác cũng
như của chính bản thân. Bên cạnh ý chí vươn lên là vô số những vấp ngã và buông
xuôi bỏ cuộc. Nhưng là một người luôn tin ở sức mạnh tinh thần, Dostoevski xác
tín rằng sống là một cuộc chiến đấu liên lỉ trong đó con người luôn cần có sự
trợ giúp của Thượng Đế. Trong tác phẩm “Anh Em nhà Karamazov”, ông đã để lại một
câu nói đang suy nghĩ: “Không có Thượng Đế,
mọi sự đều được phép.”
Câu nói này đã
được chứng nghiệm một cách không sai chạy trong thế kỷ 20 vừa qua. Dostoevski
cũng đã từng kêu gọi: “Con người cần phải
biết khuất phục trước một cái gì đó”. Trong trường hợp của Nước Nga ở thế kỷ
20, con người đã chọn lựa việc người sau khuất phục người trước: họ đã đặt
Lenin vào một lăng tẩm và xem Karl Marx và Stalin như những vị thần. Là những
người vô thần, họ thờ lạy con người hơn là Thượng Đế và kết quả, như chúng ta
đã chứng kiến, thế giới bi thảm hơn bao giờ hết.
Năm 1983, 102
năm sau khi Dostoevsky qua đời, khi nhận giải thưởng Templeton vì những đóng
góp cho việc thăng tiến tôn giáo trên thế giới, văn hào Alexander Solzhenitsyn
khẳng định rằng chính nhờ đọc các tác phẩm của đại văn hào này mà ông mới nhận
ra tính tối thượng của tinh thần đối với vật chất. Trong bài diễn văn đọc khi
nhận giải, nhận định về thảm kịch cộng sản tại Nga, văn hào Solzhenitsyn đã
tuyên bố: “Chính vì con người quên lãng
Thượng Đế mà điều đó đã xảy ra.” (x. Philip Yancey, Soul Survivor, Hodder
& Stoughton 2001)
Cái thảm kịch của
Nga hiện cũng đang diễn ra tại Việt nam. Ngoài cũng như trong nước, những người
còn có chút thao thức với quê hương đất nước đều nói đến lỗ hỗng đạo đức, sự xuống
cấp tinh thần, cuộc tổng khủng hoảng nhân cách, “đứt dây thần kinh xấu hổ”…Tựu
trung, nguyên nhân của sự phá sản tinh thần này, nếu ở Nga là những đền thờ của
những ông tổ Karl Marx, Lenin và Stalin, thì ở Việt nam chính là việc sùng bái
cái con người hiện đang được ướp xác, đặt trong lăng tẩm và được tôn lên hàng
thần thánh. Cộng sản Việt nam dùng cái xác ướp “thần thánh” đó làm bình phong
che đậy bao nhiêu tồi bại trong xã hội.
“Sống, chiến đấu,
lao động, học tập và noi gương” con người này cũng đồng nghĩa với bóp nghẹt tiếng
nói của lương tâm, chà đạp phẩm giá của người khác, lọc lừa dối trá để bằng mọi giá vươn lên đỉnh cao của quyền lực,
chức quyền, danh vọng, tiền bạc v.v
Nhìn những cuộc
cách mạng liên tục xảy ra gần đây, người ta có thể nhìn thấy sự trưởng thành, ý
thức, hiểu biết, can đảm và quyết tâm chọn lựa của từng con người trong cái đám
đông lên tới hàng trăm ngàn người khi dấn thân tham gia vào cách mạng. Những cuộc
cách mạng hôm nay không còn hình ảnh của một đám đông bát nháo, đầy kích động
vì bị tuyên truyền bóp méo sự thật của một chủ nghĩa. Cuộc cách mạng hôm nay có
thể nói là cuộc cách mạng từ lương tâm. Khi muôn người như một xuống đường một
cách ôn hòa để kiên quyết đòi hỏi công lý, người ta có thể lạc quan để nói rằng
trong cuộc chiến nội tâm của mỗi người, cán cân có chiều hướng nghiêng về chân,
thiện, mỹ.
Nhìn lại thế kỷ
20 vừa qua, người ta có thể nói rằng đó là một thế kỷ bị ảnh hưởng bởi những học
thuyết, những chủ nghĩa và ngay cả tôn giáo. Thế nhưng với những năm khởi đầu của
thế kỷ 21, người ta có thể nhìn thấy hơn bao giờ hết, con người, tiếng nói của
lương tri và những nhu cầu trong quyền sống của con người và thiên nhiên được
đưa lên hàng đầu: càng có nhiều nạn đói, thiên tai thì lại càng có nhiều người
đủ mọi giới sang hèn xắn tay giúp đỡ mà chẳng cần phải “hô hào” ầm ĩ. Người ta
quay trở về với chính trái tim tốt đẹp của mình là lắng nghe nó.
Chiến thắng nội
tâm có lẽ là một khởi đầu tốt đẹp cho một cuộc cách mạng cho chính mình và cho
đất nước Việt nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét