Chu Thập
29/3/11
Tôi thuộc thành
phần những người Công giáo đến nhà thờ mỗi tuần ít nhứt một lần. Làm gì thì
làm, có bận đến đâu và có “bê tha” đến đâu, tôi cũng cố gắng lê bước đến nhà thờ
vào ngày Chúa nhựt. Thuở nhỏ, tôi bị cha mẹ cưỡng bách đến nhà thờ. Có một thời,
tôi “sợ tội” và làm bổn phận tôn giáo như một cái máy hay giữ đạo theo cái thói
“tấp tểnh người đi tớ cũng đi”. Nhưng
ngày nay, tôi không còn đến nhà thờ vì luật buộc phải giữ ngày Chúa nhựt nữa,
mà như một nhu cầu không thể thiếu được. Tôi cần đến đó như sinh vật cần có dưỡng
khí để thở. Tôi cần đến đó để múc lấy sinh lực cần thiết cho một tuần mới.
Tôi cần có đời sống
tôn giáo và tôi nghĩ rằng xã hội cũng mãi cần có tôn giáo. Ngày nay, người ta
thường nói đến hiện tượng tục hóa trong các xã hội Tây phương. Người ta nói đến
thời hậu Kitô giáo hay hậu tôn giáo, như thể con người tiến bộ đến một lúc,
không phải để có tự do tôn giáo, mà để tự do “khỏi tôn giáo”. Quả thật, con số
các tín đồ đến nơi thờ phượng mỗi ngày Chúa nhựt, nhứt là trong Kitô giáo, ngày
càng thưa thớt. Ở những nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời, nhiều người, vì
không muốn đóng thuế tôn giáo, cũng xin rút tên ra khỏi danh sách của Giáo hội.
Dù vậy, tôi thấy
cái bóng tôn giáo vẫn còn bao phủ trên cuộc sống của con người thời đại. Ít hay
nhiều, đậm nét hay mờ nhạt, người ta khó thoát khỏi cái bóng ấy.
Tôi suy nghĩ
theo hướng ấy từ một số sự kiện.
Mới đây, Tòa án
Nhân quyền Âu châu đã ra nghị quyết cho phép nước Ý, một trong những nước có
truyền thống Công giáo kỳ cựu nhứt tại lục địa này, được phép treo Thánh giá
trong các trường công lập và các nơi công cộng nói chung. Phán quyết chung cục
này đã được đưa ra sau một vụ kiện tụng khá gây cấn. Số là một người phụ nữ Ý gốc
Phần lan đã đâm đơn kiện một trường tiểu học công lập vì trường này cho treo Thánh
giá trong các lớp học nơi con cái bà đang theo học. Người phụ nữ này lập luận rằng
sự hiện diện của Thánh giá trong các lớp học vi phạm tự do tôn giáo của con cái
bà cũng như tự do của các bậc cha mẹ được giáo dục con cái theo những xác tín
tôn giáo của họ. Người phụ nữ này thua kiện, bởi vì tất cả các tòa án các cấp tại
Ý đều bác đơn của bà. Không chịu thua cuộc, người đàn bà đã kiện lên tới tòa án
Nhân quyền Âu châu. Năm vừa qua, 7 vị thẩm phán của tòa này đều đồng thanh phán
quyết rằng nước Ý đã vi phạm điều khoản
về tự do giáo dục của Qui ước Nhân quyền Âu châu. Chính phủ Ý không chấp nhận
phán quyết cho nên đã làm đơn kháng án lên phòng thượng thẩm của tòa này. Và kết
quả là mới đây, tòa án Nhân quyền Âu châu đã đảo lộn phán quyết của mình để
nhìn nhận rằng Ý và các nước trong Liên
Âu có quyền trưng bày Thánh giá và các biểu tượng tôn giáo tại các nơi công cộng.
Dù là một nhà nước
thế tục, trong đó có sự tách biệt rõ ràng giữa nhà nước và tôn giáo, Ý và hầu hết
các nước Tây phương khác cũng vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của Kitô giáo, nếu
không về phương diện đạo đức, thì ít nhứt về mặt văn hóa. Tại Châu Mỹ Latinh,
nguyên tắc tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước cũng vẫn không ngăn cấm việc treo
các biểu tượng của Kitô giáo trong các nơi công cộng và công sở. Mới đây, tối
cao Pháp viện tại Peru đã ra phán quyết yêu cầu giữ nguyên Thánh giá trong các
tòa án. Ngay cả như tại Thụy sĩ, một nước mà sự tách biệt giữa nhà nước và giáo
hội rất rạch ròi, người ta cũng chứng kiến một điều lạ thường. Đó là cũng năm vừa
qua, qua một cuộc trưng cầu dân ý, người dân nước này đã yêu cầu không cho người
Hồi giáo được xây tháp chuông trên các đền thờ Hồi giáo: có tục hóa đến đâu, Thụy
sĩ vẫn cứ muốn giữ cái bản sắc Kitô giáo của mình!
Nói gì đến Hiệp
chủng quốc Hoa kỳ. Chuyện vị tân tổng thống tuyên thệ nhậm chức với một bàn tay
được đặt trên quyển Kinh Thánh là một hình ảnh quá quen thuộc đối với dân chúng
Mỹ cũng như mọi người trên khắp thế giới. Người ta lại càng thấy rõ dấu ấn của
tôn giáo hơn ngay trên chính đồng Mỹ kim. Cục diện quốc gia này có thay đổi đến
đâu, kinh tế có suy trầm đến đâu, mãi mãi bất cứ ai cầm đồng bạc của nước này
cũng đều đọc được câu “In God we trust”
(chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa). Mới đây, một ủy ban tư pháp của Hạ viện Mỹ
lại còn đi xa hơn khi đưa ra đề nghị cho viết câu này tại những nơi công cộng.
Xem ra, cái bóng của Thiên Chúa và của tôn giáo nói chung khó có thể bị cất khỏi
cái xã hội văn minh nhứt thế giới này.
Đó là chuyện ở
các nước Tây phương. Tại các nước Hồi giáo thì tôn giáo, tức Hồi giáo, đương
nhiên có một chỗ đứng độc tôn trong xã hội và chính trị và tôn giáo là một. Đến Á rập Saudi mà muốn được an toàn thì chớ
có tìm cách mang Thánh giá hay công khai tuyên xưng niềm tin nào khác ngoài Hồi
giáo. Tại những nước này, luật Hồi giáo Sharia được xem là nền tảng của hiến
pháp và luật pháp quốc gia. Ngay cả một nước vừa được giải thoát khỏi ách thống
trị độc tài như Ai cập chẳng hạn, kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý mới đây
cũng đòi hỏi phải lấy luật Sharia làm nền móng cho pháp luật.
Dĩ nhiên, một
khi giáo luật của một tôn giáo được xem như nền tảng của pháp luật thì những
người thuộc một tôn giáo thiểu số không tránh khỏi kỳ thị và ngay cả bách hại.
Đó là trường hợp xảy ra như cơm bữa tại Pakistan. Gần đây thế giới chú ý đến quốc
gia Hồi giáo ở Á châu này là vì chuyện xảy ra cho một tín hữu công giáo bị kết
án tử hình vì tội gọi là báng bổ tiên tri Mahomet. Người phụ nữ tên là Asia
Bibi đã bị một tòa án địa phương tại tỉnh Punjab kết án tử hình vì bị tố cáo “ăn
nói xúc phạm” đến tiên tri Mahomet. Theo điều được gọi là “luật chống phạm thượng”,
tất cả những ai báng bổ tiên tri Mahomet hay kinh Coran đều bị kết án tử hình.
Trong hầu hết mọi trường hợp, luật này bị lợi dụng để giải quyết chuyện tư thù
cá nhân hay công việc làm ăn. Người phạm luật chống phạm thượng bị kết án tử
hình đã đành, mà bất cứ ai bênh vực họ hay yêu cầu tu chính luật này cũng đều
cùng chung một số phận. Đó là trường hợp xảy ra cho ông Salman Taseer, tỉnh trưởng
tỉnh Punjab, người yêu cầu duyệt xét lại luật chống phạm thượng. Ông đã bị một
người cận vệ hạ sát và kẻ sát nhân được đám đông hoan nghênh như một vị anh
hùng. Điều này cũng xảy ra cho ông Shahbaz Bhatti, bộ trưởng đặc trách các nhóm
tôn giáo thiểu số. Ông là người tín hữu Kitô duy nhứt trong hội đồng nội các
Pakistan. Vì cương quyết bảo vệ các tín hữu Kitô và yêu cầu tu chính luật chống
phạm thượng, ông cũng bị hạ sát một cách dã man. Trong cả hai vụ giết người giữa
ban ngày này, chính phủ Pakistan xem ra đã bị trói tay trước sức ép không những
của những lực lượng Hồi giáo cực đoan mà còn của cả số đông người Hồi giáo tại
nước này.
Nổi tiếng là một
xã hội khoan nhượng như Ấn độ, vậy mà hiện nay tại hầu hết 28 tiểu bang trong
nước, các cuộc bạo động chống các nhóm tôn giáo thiểu số do các tổ chức Ấn giáo
cực đoan chủ trương với sự hậu thuẫn của Đảng Quốc gia Ấn giáo, cũng diễn ra
như cơm bữa. Tôn giáo quả đang là giềng mối của những xung đột xã hội tại nước
này.
Giữ được sự cân
bằng giữa các tôn giáo như trường hợp Libăng không phải là chuyện dễ dàng. Tại
nước này, quyền lực trong chính phủ được phân chia dựa theo thành phần tôn
giáo. Hiến pháp nước này qui định rằng tổng thống phải là một tín hữu Công giáo
Maronit, thủ tướng phải là một tín đồ Hồi giáo thuộc hệ phái Sunni và chủ tịch
quốc hội phải là một người Hồi giáo thuộc hệ phái Shiite. Từ bao thập niên qua,
thế quân bình này đã tạo được sự ổn định cho đất nước và cuộc sống chung hòa
bình trong xã hội.
Có gắn bó với
tôn giáo như các nước Hồi giáo và Ấn độ, có tục hóa như các nước Tây phương, ở
đâu con người cũng khó chối bỏ được vai trò của tôn giáo trong xã hội. Tại những
nước đã từng tuyên xưng chủ nghĩa vô thần như quốc giáo, sự hồi sinh tôn giáo lại
càng chứng tỏ chỗ đứng không thể thiếu được của tôn giáo trong xã hội loài người.
Sở dĩ con người
cần có tôn giáo là bởi vì, nói một cách nôm na như người Việt mình, tôn giáo
nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành. Bên kia những giải thích lệch lạc và những
chủ trương cực đoan lợi dụng tôn giáo cho những ý đồ chính trị, tôi tin rằng
tôn giáo nào cũng hướng con người đến mục đích “ăn ngay ở lành” ấy. Và ngược lại, tôi cũng tin rằng đã “ăn ngay ở lành” thì dù không tuyên
xưng, không thực hành và cũng chẳng thuộc tôn giáo nào, con người cũng vẫn là “người có đạo”.
Tôi nghĩ đến cái
“Đạo” của vô số người dân Nhựt Bản đang được cả thế giới nhắc đến với tất cả cảm
phục nhân trận động đất và sóng thần vừa qua. Nhà báo Ngô nhân Dụng đã nói đến
cái “Mỹ chất” của dân tộc này (x. Việt
luận 22/3/2011). Người ta không thể kể xiết những hành động tử tế của người dân
Nhựt giữa cơn hoạn nạn khủng khiếp vừa qua. Một nhân viên cảnh sát Nhựt gốc Việt
nam đã kể lại chuyện một cậu bé 9 tuổi, sau khi nhận được một túi lương khô do
ông trao tặng, đã mang gói lương thực đến trao cho những người đang phân phát
lương thực. Được hỏi tại sao làm thế, cậu bé giải thích: “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú
phát chung cho công bằng chú ạ.” Viên cảnh sát gốc Việt này nhận xét: “Tôi nghĩ một dân tộc với những đứa trẻ 9 tuổi
đã biết nhẫn nại, chịu gian khổ và chấp nhận hy sinh cho người khác chắc chắn
là một dân tộc vĩ đại.” Theo lời viên cảnh sát này, một nhà báo Trung quốc,
“khi đi qua một ngôi nhà bị sập mà tiền giấy có lẽ từ ngôi nhà đó trôi ướt nằm
tứ tán cả bãi đất cũng vài chục triệu Yen, nhưng chẳng ai thèm nhặt, đã phải thốt
lên: “50 năm nữa, Trung quốc chắc chắn sẽ
đứng đầu thế giới, nhưng vĩnh viễn Trung quốc không thể được gọi là cường quốc,
vì 50 năm nữa, người Trung quốc cũng chưa thể có trình độ dân trí và ý thức đạo
đức công dân cao như người Nhựt hiện tại.” (x.báo đã dẫn).
Với nếp sống văn
minh kỹ thuật nhứt nhì thế giới, xã hội Nhựt bản không tránh khỏi làn sóng tục
hóa. Tuy nhiên, theo tôi, người dân nước này, nhìn chung, vẫn “có đạo” hơn ai hết,
bởi vì họ đang sống cái cốt lõi của tôn giáo.
Nhà thần học người
Brasil nổi tiếng là linh mục Leonardo Boff kể lại rằng, bên lề một cuộc hội thảo
bàn tròn quốc tế về “Tôn giáo và tự do”, ông đã hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma : “Thưa ngài, tôn giáo nào tốt nhứt?” Và
nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng đã trả lời như sau: “Tôn giáo tốt nhứt là tôn giáo đưa bạn đến gần với Đấng Tối Cao nhứt,
là tôn giáo biến bạn thành con người tốt hơn.”
Được hỏi tiếp: “Cái gì làm tôi tốt hơn?” Đức Đạt Lai Lạt
Ma trả lời: “Tất cả những gì làm bạn biết
thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu
hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn. Tôn giáo nào biến bạn thành như vậy là
tôn giáo tốt nhứt.”
Ngài giải thích:
“Ông bạn tôi ơi, tôi không quan tâm đến
tôn giáo của bạn hoặc bạn có ngoan đạo hay không. Điều thật sự quan trọng đối với
tôi là cách cư xử của bạn đối với người đồng loại, gia đình, công việc, cộng đồng
và đối với thế giới.”
Tư tưởng của Đức
Đạt Lai Lạt Ma gợi lại cho tôi câu nói đầy thách thức của đức cố tổng giám mục
Nguyễn Kim Điền, người đã bị cộng sản Việt nam đày đọa và cuối cùng bị sát hại
vì bênh vực cho nhân quyền và tự do tôn giáo. Ngài nói: “Có người đã chết cho niềm tin, nhưng liệu có ai dám chết cho nhân quyền
không?”
Tử đạo vì niềm
tin thì tôn giáo nào cũng có. Nhưng sống cho người khác và chết cho người khác
mới thực sự là cốt lõi của tôn giáo. Xét cho cùng đó cũng là cốt lõi của đạo làm người.
Sống như thế thì
nói như cố thi sĩ Nguyễn Hữu Loan, trong các thứ “bận bịu” của cuộc đời, “bận làm người” là cái bận cao cả nhứt và
đáng để bận nhứt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét